đã nói nhiều thay cho họ.
Ở hàng thứ nhất, tôi thoáng nhìn thấy những áo lễ trắng và những chỉ vàng
lóng lánh dưới ánh mặt trời. Đó là những vị linh mục ở Văn-Xá đến tận cửa
Mỏ để cầu nguyện cho chúng tôi. Khi chúng tôi đi qua, các vị quỳ cả
xuống, mặt đất không lầm lội nữa, vì trong mười bốn hôm đã khô ráo như
thường.
Có đến hai mươi cánh tay đưa ra để đỡ lấy tôi, nhưng Kỹ-sư không muốn
nhường lại: sung sướng và tự hào, Kỹ-sư cứ ẵm tôi về đến văn phòng, ở đó
người ta đã sửa soạn tươm tất chỗ nghỉ cho chúng tôi.
Hai hôm sau, tôi cùng Mã-Tư và Lãnh-Nhi đi chơi phố. Mọi người thấy
chúng tôi đều dừng lại nhìn.
Có nhiều người đến bắt tay chúng tôi, với những đôi mắt rưng rưng lệ.
Có nhiều người quay mặt đi.
Những người này để tang và chua xót, họ tự hỏi rằng tại sao một đứa trẻ
không cha không mẹ lại còn sống, mà những người cha, cột trụ trong gia
đình, những người con yêu dấu lại bị vùi sâu trong Mỏ.
Có nhiều người làm phiền chúng tôi, định kéo chúng tôi về nhà ăn cơm
hoặc mời chúng tôi vào hàng uống cà-phê.
Họ bảo:
- Em kể lại chuyện bị chôn sống cho ta hay.
Tôi cảm ơn và từ chối tất cả, vì không tiện kể chuyện mình cho người ngoài
nghe. Hơn nữa, lẽ nào lại để người ta mua chuyện của mình bằng một bữa
ăn hay một ly cà-phê. Vả lại, tôi thích nghe chuyện hơn là kể chuyện. Tôi
nghe An-Sinh, tôi nghe Mã-Tư nói lại những chuyện đã xảy ra ở trên mặt
đất trong thời gian tôi ở dưới Mỏ cho tôi nghe.
An-Sinh nói:
- Khi tôi tưởng anh chết thì lòng tôi đau xót quá như gẫy một cánh tay vì tôi
tưởng thế nào anh cũng chết.
Mã-Tư nói:
- Tôi không bao giờ tin rằng anh chết. Tôi không biết anh sẽ còn sống mà
ra khỏi Mỏ hay người ta sẽ cứu được anh kịp thời, nhưng tôi tin rằng anh
không thể nào chết đuối được. Công việc cứu nạn làm đến nơi đến chốn thì