ra mới sáng ra.
Anh nói vậy thì tôi giận làm sao được? Tôi bật cười và chúng tôi lại tiếp tục
làm việc.
Nhưng về âm nhạc, thì những nỗi khó khăn không còn nữa. Ngay buổi đầu,
anh học tấn tới và mau chóng khiến tôi phải kinh ngạc. Rồi anh hỏi những
câu làm tôi phải lúng túng, lắm khi đâm bí.
Tôi thú thật rằng điều đó làm tôi bực tức và mất thể diện. Tôi trịnh trọng tự
coi tôi là một Giáo-sư và lấy làm nhục không thể trả lời học trò được. Tôi
nghĩ cách: phải ngụy biện.
Học trò tôi chẳng tha tôi, cứ hỏi tôi luôn những câu:
- Tại sao người ta lại không viết âm nhạc bằng một thứ “khóa”?
- Tại sao người ta lại dùng những dấu “thăng” khi lên giọng và những dấu
“giáng” khi xuống?
- Tại sao tiết đầu và tiết cuối của một bài hát, số nhịp lại không đều nhau?
- Tại sao người ta lại hòa dây vĩ-cầm bằng những “nốt” này mà không bằng
những “nốt” khác?
Về câu hỏi cuối cùng, tôi hãnh diện trả lời rằng:
- Vĩ-cầm không phải là thứ nhạc khí của tôi, nên tôi không cần biết người
ta phải lên dây thế nào.
Mã-Tư không vặn được nữa.
Cách trả lời này không thể áp dụng với những câu hỏi trên được vì những
dấu “thăng”, dấu “giáng” thuộc về lý thuyết của âm nhạc, tôi là “nhạc sư”,
tôi phải biết, nếu không thì – tôi nghĩ thế - mất cả uy quyền và thể diện, mà
uy quyền và thể diện là hai điều tôi rất chú trọng.
Vì thế, khi tôi không biết phải trả lời thế nào thì tôi dùng cách thoát kiểu
ông An-Thiện, như khi tôi hỏi than đá là gì, đã trả lời tôi một cách quả
quyết:
“Than đá là một thứ than rắn như đá.”
Theo cách đó, khi tôi bí; tôi cũng không kém quả quyết, trả lời Mã-Tư
rằng:
- Nó như thế bởi vì nó phải như thế. Đó là một định lệ.
Mã-Tư không có tính phản đối những định lệ, nhưng lúc đó, anh giương