I. TRỊNH HOÀI ĐỨC
1) TRỊNH HOÀI ĐỨC (ẤT-DẬU 1765 – ẤT-DẬU 1825)
Trịnh hoài Đức còn có một tên nữa là An, tên chữ là Chỉ-sơn, hiệu Cấn-
trai vốn là dòng-dõi khoa-hoạn đời Minh ở Trung-Quốc, quê ở Phúc-kiến.
Khi nhà Thanh dứt nhà Minh, buộc dân phải gióc tóc, ông nội của
Trịnh là Hội không khứng, bỏ nước ra đi, sang xin làm dân chúa Nguyễn ở
Phú-xuân (nhằm đời chúa Hiền Nguyễn-phúc Tần 1648-1687), rồi vào trong
Nam ở đất Trấn-biên (Biên-hòa bây giờ).
Thân-sinh của Trịnh là Khánh, có tài viết chữ lớn và đánh cờ rất cao,
nổi tiếng. Chúa Nguyễn-phúc Khoát (Võ-vương 1738-1765) nạp dụng cho
làm An-dương cai-thu, sau đổi ra Quy-nhân ; Quy-hóa làm chấp-canh tam
trường cai-đội.
Khi cha mất, Trịnh mới 10 tuổi, mẹ dời về ở trấn Phan-an (Gia-định),
cho học với Võ Trường Toản.
Năm mậu-thân 1788, khi chúa Nguyễn-phúc Ánh thâu phục được Gia-
định, Trịnh cùng với Lê quang Định và Ngô nhân Tịnh ra ứng cử, được bổ
làm chế-cáo ở viện Hàn-lâm, rồi sung chức đông-cung thị-giảng, theo đông-
cung Cảnh ra trấn thành Diên-khánh (Khánh-hòa).
Năm giáp-dần 1794, Trịnh được thăng Hữu-tham-tri bộ Hộ.
Tháng năm, năm tân-dậu 1801, ngày mồng 2, Nguyễn phúc Ánh lên
ngôi xưng đế-hiệu là Gia-long, lập sáu bộ thượng-thư, Trịnh được lãnh
thượng-thư bộ Hộ, sung chức chánh-sứ sang nhà Thanh, cùng đi với hai vị
phó-sứ là tham-tri bộ Binh, Ngô nhân Tịnh và tham-tri bộ Hình Hoàng ngọc
Uẩn. Sứ-bộ đi trên hai chiếc thuyền hiệu Bạch-yến và Hoàng-hạc, đem
quốc-thư cùng ấn-sách của Tây-sơn qua dâng vua Thanh ; lại giải luôn đám
cướp biển là Đông-hải-vương Mạc quang Phù với thống-binh Lê văn Canh
và Phàn văn Tài.