bạc vàng châu báu. Muốn trốn tránh trách
nhiệm, Mahet làm giấy bảo các cụ thượng bên
bộ ký tên vào. Lúc ấy duy có Nguyễn Hữu Bài
không ký, cũng như hồi năm 1907, Ngô Đình
Khả không chịu ký tên vào giấy của triều đình
xin bỏ vua Thành Thái. Nhân đấy ở kinh đô có
câu phong dao “Bỏ vua không Khả, đào mả
không Bài” (Phế quân vô Khả, quật chủng vô
Bài). Vua Thành Thái bị phế năm 1907, người
Pháp lấy cớ nhà vua rối loạn thần kinh,
nhưng sự thật là vua không chịu ký nhượng
Bắc kỳ làm thuộc địa. Vua Duy Tân bị phế năm
1916, sau cuộc khởi nghĩa thất bại. Cả hai cha
còn đều bị đầy sang cù lao Réunion gần Phi
châu. Việc đầu độc ở trại lính tây Hà Nội về
mùa hạ năm 1908. Đảng viên cách mạng hợp
với Đề Thám định đánh úp lấy Hà Nội cổ động
được một số lính tập chịu làm nội ứng, đánh
thuốc độc vào đồ ăn của quân lính tây, rồi
quân ở ngoài sẽ kéo về tiến công. Nhưng việc
không thành, vì có kẻ phản bội, chỉ thu được
kết quả là ít nhiều lính tây trúng độc chết.
Năm 1909, một số Đông du học sinh ta hợp
với đảng viên cách mạng Tàu nổi lên ở Lạng
Sơn, giết Tây chết nhiều. Các cụ Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Phan
Tuấn Phong, Lê Đại, Dương Bá Trạc... lập
trường Đông Kinh Nghĩa Thục bề ngoài là cơ
quan giáo dục, nhưng bề trong chính là công
cuộc cách mạng kháng thực dân. Lúc ấy là
năm 1907. Năm 1908, dân tỉnh Quảng Nam
khởi lên phong trào kháng cự sưu thuế, kéo