thân phụ của Lập Nham phu nhân vì cách
mạng mà bị thực dân Pháp đưa vào an trí tại
tỉnh Cần Thơ rồi cụ qua đời ở đó. Nam vang
Lung cỗi: Lúc này cụ Cử Nhị Khê, thân phụ ông
Lập Nham đã bị Pháp bắt giam một độ rồi đưa
sang an trí tại Nam Vang kinh đô nước Cao
Miên. Dụ hậu quang tiền: Gây dựng người
sau, rỡ ràng đời trước; ý nói dạy dỗ con cháu
cho nên người, rạng vẻ tổ tiên. Bĩ cực thái
hanh: Hết lúc bĩ đến lúc thái. Cửa Nghĩa môn:
Cổng nhà Lập Nham phu nhân ở Động Trung,
Thái Bình, đề hai chữ Nghĩa môn tự đời Tổ
phụ để lại. Ôn Như: Biệt hiệu cụ Cử Nhị Khê.
Theo Từ điển văn học (bộ mới), sách đã dẫn,
tr. 383. Vũ Bằng, 40 năm nói láo, Nxb VHTT,
1993, tr. 174-175. Mục từ do Nguyễn Q. Thắng
soạn, in trong Từ điển Văn học bộ mới, Nxb
Thế giới, 2004, tr. 383. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn
hiện đại tập I, Nxb Khoa học – Xã Hội, 1989, tr.
466. GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển
tích danh nhân từ điển quyển I, tác giả tự xuất
bản, Sài Gòn, 1966, tr. 220. Nguyễn Q. Thắng &
Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam, NXb Khoa học – Xã Hội, 1992, tr. 127-
128. Vụ mưu sát và binh biến trong hàng ngũ
bồi bếp và binh lính người Việt Nam phục vụ
cho quân Pháp đóng ở thành Hà Nội diễn ra
ngày 27 tháng Sáu năm 1908. Mục đích của họ
nhằm đầu độc quân Pháp để chiếm Hà Nội,
thêm sự tiếp ứng và chỉ đạo từ bên ngoài của
nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cùng với sự
tham gia của Phan Bội Châu trong việc vạch