trung đoàn bộ binh số 15 của Mỹ tại Thiên Tân, ông làm việc cùng với
Marshall.
Tháng 5 năm 1927, theo mệnh lệnh của công sứ đặc mệnh toàn quyền
Mỹ tại Trung Quốc, ông được điều đến quan sát tình hình quân sự tại Từ
Châu, Nam Kinh và Thượng Hải. Sau đó, ông đã viết bản báo cáo, bản báo
cáo này rất được khen ngợi và được tặng thưởng. Năm 1928, ông làm tham
mưu trưởng đại diện trung đoàn bộ binh 15, và được tấn phong quân hàm từ
Thiếu tá lên Trung tá.
Bắt đầu từ tháng 7 năm 1929, ông được bổ nhiệm là chủ nhiệm khoa
chiến thuật Trường Bộ binh Benning của Mỹ và trở thành trợ thủ đắc lực
của phó hiệu trưởng Marshall.
Tháng 7 năm 1935 với quân hàm Thượng tá, ông đã được bổ nhiệm làm
tùy viên quân sự đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc. Trong thời gian nhậm
chức, ông đã đi khảo sát thực địa và ủng hộ cuộc kháng chiếng chống Nhật
của nhân dân Trung Quốc.
Năm 1936, ông đã lần lượt khảo sát các nơi như Quảng Châu, Quế Lâm,
Ngô Châu, Nam Ninh, Hán Khẩu, Từ Châu, Khai Phong và Lạc Dương.
Tháng 7 năm 1937, cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc bùng
nổ, ông đã tổ chức một tổ tình báo kịp thời báo cáo tình hình diễn biến cuộc
chiến với nước Mỹ. Cuối năm đó, ông chuyển đến Hán Khẩu, năm 1938
ông đã đến các vùng Lan Châu, Đài Nhi Trang, Trường Sa và Trùng Khánh
để khảo sát tình hình cuộc chiến.
Tháng 8 năm 1939, ông mãn nhiệm trở về nước và được tấn phong quân
hàm Chuẩn tướng, đồng thời được bổ nhiệm là lữ đoàn trưởng lữ đoàn số 3
thuộc sư đoàn 2.
Tháng 5 năm 1940, chỉ trong một lần tập trận quân sự, cuộc đời quân sự
của ông đã bước sang một trang mới. Tháng 7, ông được tấn phong làm sư
trưởng sư đoàn số 7 và thăng quân hàm lên Thiếu tướng. Tháng 6 năm
1941, sau một cuộc tập trận quy mô toàn quốc của lục quân, ông lại được
phong làm quân đoàn trưởng quân đoàn 3.