lại được điều sang Philippines để đảm nhậm chức vụ tư lệnh đặc khu
Malina. Năm 1925, ông trở về nước nhậm chức tư lệnh quân khu 3 và được
tấn phong quân hàm Thiếu tướng.
Năm 1928, ông nhậm chức tư lệnh quân Mỹ đóng tại Philippines. Từ
năm 1930 trở đi, ông trở thành tham mưu trưởng lục quân trẻ nhất trong
lịch sử lục quân nước Mỹ. Trong thời gian nhậm chức, ông đã dốc sức đẩy
mạnh xây dựng hiện đại hóa quân đội Mỹ. Năm 1935, ông được bổ nhiệm
làm cố vấn quân sự Philippines. Năm 1937, ông giải nghệ.
Sau khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đức, Pháp và Ý đã ký
"công ước 3 nước" vào năm 1941, chiến tranh Mỹ - Nhật xảy ra là điều
không tránh khỏi. Tổng thống Mỹ Roosevelt lại một lần nữa cho mời Athur
đảm nhận chức tư lệnh quân Mỹ tại Viễn Đông, chỉ huy toàn bộ lục quân và
không quân Mỹ tại khu vực Viễn Đông. Sau khi chiến tranh Thái Bình
Dương bùng nổ, quân Nhật phòng ngự tại Philippines bị đánh bật và buộc
phải rút khỏi Manila đến cố thủ tại đảo Bataan. Tháng 3 năm 1942, ông
được điều đến Australia, ít lâu sau được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh quân
Đồng minh Tây Nam Thái Bình Dương. Ông không đồng tình với phương
châm "tiền Âu hậu Á" mà nước Mỹ đang tiến hành, ông nhấn mạnh tầm
quan trọng của chiến tranh Thái Bình Dương. Mùa thu năm 1942, ông bắt
đầu chỉ huy quân tiến hành phản công vào quân Nhật, vận dụng chiến thuật
"nhảy cóc", nhiều lần tiến hành hai thứ quân (không quân và hải quân) đổ
bộ. Đến tháng 7 năm 1944, sau khi giành được thắng lợi trong chiến dịch
Paquan, ông lại tiếp tục chiếm được New Guinea.
Cũng trong tháng 10 năm đó, ông bắt đầu thực thi chiến dịch Philippines.
Tháng 12, công chiếm đảo Wright. Tháng 1 năm 1945, MacArthur tổ chức
phát động chiến dịch tiến công đảo Luzon, ông khích lệ toàn quân cần phải
có sự đột phá có tính quyết định, đánh bại quân Nhật đóng trên đảo rồi chọc
thẳng vào Manila.
Ngày 3 tháng 2, cánh quân thứ nhất quân Đồng minh đã tiến vào Manila,
giải phóng hơn 5.000 tù binh. Sau này, quân của MacArthur lại tiến hành