chiến dịch đảo Inlet, chiến dịch gian nan và mất nhiều thời gian trên đảo
Iwojima và Okinawa, cuối cùng, ông cũng đã quay lại thủ đô Manila của
Philippines sau 3 năm phải từ bỏ vì thất bại.
Tháng 8, ông nhậm chức Thống soái tối cao quân đội Đồng minh, đảm
nhận nhiệm vụ chiếm lĩnh nước Nhật. Ngày 2 tháng 9, ông thay mặt các
nước Đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng của nước Nhật. Trong thời kỳ
chiếm lĩnh Nhật Bản, ông đẩy mạnh cải cách dân chủ và đã có ảnh hưởng
rất lớn đến nước Nhật sau chiến tranh. Tháng 6 năm 1950, chiến tranh Triều
Tiên bùng nổ, ông được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh "quân đội liên hợp
quốc" tiến vào xâm lược Triều Tiên. Ông ra sức chủ trương mở rộng chiến
tranh, tiến quân xâm phạm biên giới Trung Quốc - Triều Tiên, nhưng dưới
sự phản kích quyết liệt của quân tình nguyện Trung Quốc và nhân dân Triều
Tiên, quân của MacArthur bị buộc phải lui về cố thủ tại khu vực phía Nam
tuyến 38. Tháng 4 năm 1951, do ra sức chủ trương mở rộng quy mô chiến
tranh xâm lược Triều Tiên nên ông đã công khai chỉ trích chiến lược toàn
cầu của tổng thống Truman, vì vậy vào tháng 4 năm 1951, ông đã bị bãi
chức. Cuộc đời chinh chiến của ông kể từ đây đã kết thúc. Ông trở về nước
Mỹ.
Năm 1952, ông nhậm chức thành viên hội đồng quản trị công ty
Remington - Rand. Tháng 7 năm 1961, theo lời mời, ông đã đến Manila để
tham dự hoạt động kỷ niệm lần thứ 15 Philippines độc lập. Vẫn ăn vận theo
lối quen thuộc: Bộ quân trang vải kaki, đầu đội chiếc mũ chiến đấu mềm,
đeo cặp kính đen phi công, ông đã đến Philippines trong sự đón tiếp nồng
nhiệt của hàng vạn người dân Philippines.
Ngày 5 tháng 4 năm 1964, do mắc bệnh viêm thận, gan cấp tính, tuy đã
được tận tình chữa chạy tại trung tâm chẩn trị bệnh viện lục quân Walter
Reed, nhưng do bệnh nặng MacArthur đã qua đời vào tuổi 84. Ngay vào
ngày hôm đó, Tổng thống Mỹ đã hạ lệnh cho tất cả các căn cứ quân sự của
Mỹ trên khắp thế giới bắn 19 phát đại bác để tưởng niệm tướng MacArthur
và treo cờ rủ cho đến hết ngày an táng. Thi thể của ông được lần lượt đưa