thư thứ nhất trung ương cục Trung Nam và uỷ viên thường trực Hội nghị
Chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc khoá 1. Tháng 11 năm 1951
ông được bầu làm phó chủ tịch uỷ ban quân sự Cách mạng nhân dân chính
quyền nhân dân trung ương, từ năm 1954 trở đi ông giữ chức Phó thủ tướng
và phó chủ tịch uỷ ban quốc phòng. Tháng 4 năm 1955 tại Đại hội đại biểu
toàn thể trung ương Đảng khoá VII Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông được
bầu làm uỷ viên Bộ Chính trị.
Tháng 5 năm 1958 tại Đại hội toàn thể trung ương đảng khoá VIII Đảng
Cộng sản Trung Quốc ông được bầu làm thường trực bộ chính trị và phó
chủ tịch trung ương Đảng. Tháng 9 năm 1959 được bầu làm phó chủ tịch uỷ
ban quân sự trung ương kiêm Bộ trưởng bộ Quốc phòng.
Tháng 4 năm 1969 tại đại hội Đảng khoá X trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc ông lại tiếp tục được bầu làm thường trực bộ Chính trị, phó chủ
tịch trung ương Đảng và phó chủ tịch uỷ ban quân sự trung ương.
Đáng tiếc là trong "Đại cách mạng văn hóa", ông lại cùng với Trần Bá
Đạt, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Diệp Quân, Lý Tác Bằng và Khâu
Hội Tác kết thành tập đoàn phản cách mạng sau đó cấu kết với tập đoàn
phản cách mạng Giang Thanh âm mưu hãm hại lãnh đạo Đảng và Nhà nước
hòng chiếm đoạt quyền lực tối cao của Đảng và Nhà nước. Vì vậy ngày 8
tháng 9 năm 1971 ông đã đích thân ký lệnh đảo chính vũ trang phản cách
mạng nhằm diệt trừ Mao Trạch Đông lập ra một trung ương khác. Sau khi
âm mưu bị bại lộ, ông đã lên máy bay tháo chạy ra nước ngoài vào ngày 13
tháng 9 năm 1971, nhưng đã bị tử nạn máy bay tại Mông Cổ. Năm 1981 toà
án đặc biệt thuộc toà án nhân dân tối cao nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa đã phán xử ông là tội phạm chủ mưu vụ án tập đoàn phản cách mạng.
Trong thời kỳ chiến tranh, ông đã tổng kết được rất nhiều kinh nghiệm
chiến tranh và đã hình thành một hệ thống chiến lược hoàn chỉnh. Một loạt
các nguyên tắc chiến thuật như "nhất điểm lưỡng diện", "tam tam chế", "tứ
tổ nhất đội" và "tứ nhanh nhất chậm" và còn rất nhiều kiến giải độc đáo
khác đối với vấn đề tác phong và chiến thuật trong chiến đấu.