sự và học viện quân sự.
Trong báo cáo quân sự với tiêu đề "Luận chiến trường khu giải phóng",
ông đã tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo và đấu tranh vũ trang của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, đặc biệt là kinh nghiệm tác chiến chống Nhật của cánh
quân số 8 và quân đoàn 4 mới; trình bày và phân tích sâu sắc chặng đường
hình thành, phát triển và lớn mạnh của chiến trường khu giải phóng; phân
tích đường lối quân sự phòng ngự đơn thuần của Quốc dân Đảng và đường
lối quân sự đấu tranh nhân dân của Cộng sản Đảng trong kháng chiến chống
Nhật. Đồng thời, từ góc độ nguyên tắc xây dựng quân đội, chế độ quân
dịch, nuôi quân, lãnh đạo quân đội, dụng binh, công tác chính trị, chỉ huy
quân đội, ông đã trình bày và phân tích tỉ mỉ đường lối quân sự của chiến
tranh nhân dân, đó cũng là bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng quân
sự Mao Trạch Đông.
Năm 1946, sau khi Tưởng Giới Thạch phát động cuộc nội chiến toàn
diện, Chu Đức được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh quân giải phóng nhân dân,
trợ giúp Mao Trạch Đông chỉ huy cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.
Trong 3 năm chiến tranh giải phóng, thắng lợi của chiến dịch Thanh Phong
Điếm và Thạch Gia Trang có vai trò quyết định đối với việc xoay chuyển
chiến cục Tấn - Sát - Kí, tạo ra tiền lệ thành công đầu tiên trong đánh chiếm
thành phố lớn được phòng bị kiên cố. Ông đã tổng kết kinh nghiệm trận
chiến công chiếm Thạch Gia Trang kiên cố, sau đó vận dụng vào các chiến
trường, từ đó giảm được thương vong trong các trận công chiến thành thị.
Ông còn chỉ huy 3 chiến dịch lớn là Liêu Thẩm, Hoài Hải và Bình Tân, tiêu
diệt hơn 154 vạn quân Quốc dân Đảng, giành được thắng lợi toàn diện
trong chiến dịch quyết chiến chiến lược. Ông còn trợ giúp Mao Trạch Đông
quét sạch sự thống trị của chính quyền Quốc dân Đảng trên Đại lục.