nôn nóng, nổi cáu. Khi đang học năm thứ 2 đại học thì ông bỏ giữa chừng
để thi vào trường sỹ quan Fortsill, cuộc đời chinh chiến của ông bắt đầu từ
đây. Sau khi tốt nghiệp trường sỹ quan Fortsill, ông tham gia chiến tranh
xâm lược Việt Nam với tư cách là Thiếu uý pháo binh và đã 3 lần bị
thương, trong đó có 1 lần bị bắn vào đùi. Ông được tặng 3 huân chương
dành riêng cho quân nhân bị thương trong chiến đấu và 4 huân chương "Sao
đồng".
Năm 1968, Franks từ Việt Nam trở về nước đảm nhậm chức vụ đại đội
trưởng đại đội pháo binh thuộc căn cứ huấn luyện pháo binh Canon. Năm
1969, ông được Bộ Quốc phòng tuyển chọn và cử đi học chuyên sâu tại đại
học bang Texas. Chỉ 2 năm sau ông đã có được tấm bằng thạc sỹ quản lý
thương mại. Năm 1973, Franks được điều đến Tây Đức nhậm chức trung
đội trưởng trung đội pháo binh lựu đạn số 1 của quân Mỹ. Sau đó, ông lại
vào học tại học viện tham mưu Vũ Trang, sau khi tốt nghiệp vào năm 1976
ông đã vào làm việc tại Lầu Năm Góc và trở thành tuần tra viên quân sự của
Bộ Quốc phòng, sau đó lại vào làm việc tại văn phòng bộ tham mưu. Năm
1981, ông quay lại Liên bang Đức, lúc này ông là tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn pháo binh số 2. Sau 3 năm phục vụ tại Liên bang Đức, ông trở về
nước tiếp tục học chuyên sâu tại học viện chiến tranh quân đội, đại học
Shippenbury và đã hoàn thành học vị tiến sỹ quản lý công cộng.
Năm 1991, trong chiến tranh vùng Vịnh, Franks được bổ nhiệm làm phó
sư đoàn trưởng sư đoàn kị binh số 1 thuộc quân đội tinh nhuệ Mỹ. Sau khi
chiến tranh vùng Vịnh kết thúc, Franks dần dần thăng tiến, năm 1994 được
bổ nhiệm làm tư lệnh quân đoàn 3 bộ tư lệnh trung ương quân đội Mỹ.
Tháng 6 năm 2000, Franks lại được thăng chức làm tư lệnh bộ tư lệnh trung
ương quân đội Mỹ và được tấn phong quân hàm Thượng tướng 4 sao. Mấy
năm trở lại đây, Franks nắm quyền chỉ huy lực lượng quân sự của 25 quốc
gia từ châu Phi đến Trung Á. Một viên chức quân đội đã miêu tả những gì
mà Franks phải đối mặt là "rất nhiều cát bụi, tuyết sương và còn rất nhiều
vấn đề".