chút ấn tượng nào về công tác tình báo. Là người năng nổ và hiếu học, anh
nghiên cứu đủ mọi thứ, thậm chí cả những thứ chẳng liên quan gì đến phần
việc của anh, như thế anh lập tức phá vỡ mệnh lệnh nổi tiếng số 1 của
Hitler: Không ai được biết nhiều hơn những điều được yêu cầu cho công
tác trực tiếp của người đó.
Người lãnh đạo Cục VI là Valter Shellenberg, chưa đầy ba mươi tuổi.
Sau thất bại của trùm tình báo Đức là đô đốc Canaris, Cục VI đã được bổ
sung nhiều tình báo quân sự. Felfe là trưởng phòng tin VI B-3 phụ trách
Thụy Sĩ và Lihtenshteyn. Công việc được tiến hành theo ba hướng: thu
thập thông tin, đánh giá và sử dụng thông tin, lập phiếu và lưu trữ. Các
nguồn thông tin tình báo nước ngoài nhận được cái gọi là "số V" (chữ cái
đầu tiên của từ Đức (vertrauensperson) - "tín nhân". Các điệp viên đều có
số riêng bắt đầu từ số mã của điệp viên nằm vùng (thí dụ, đối với Thuỵ Sĩ
là 79). Việc bảo mật được đặt ra chu đáo, tên thật của điệp viên chỉ có
người cùng hợp tác mới biết, thậm chí thủ trưởng cũng không biết. Nhưng
cũng có những nguồn thông tin không có chữ "V". Họ thuộc nhóm những
điệp viên cần được nguỵ trang đặc biệt cẩn thận, mặc dù họ không phải là
tín nhân, cũng không phải là điệp viên. Họ có quan hệ với ban lãnh đạo tình
báo Đức, đặc biệt với chính Shellenberg, có thể họ đã được cấp trên cho
phép. Thí dụ, một trong số những người này là giám đốc tình báo quân sự
Thụy Sĩ, tướng Rozhe Masson, có mã số là Zommer-1. Những cuộc tiếp
xúc như vậy giữa các cơ quan mật vụ được tiến hành khá thường xuyên, cả
Shellenberg và cả Felfe đều biết rằng Masson đang duy trì mối quan hệ
tương tự với người Mỹ và người Anh.
Mỗi thông tin đều được đánh giá theo hệ thống 6 điểm (điểm 6 là thấp
nhất). Sau này trong thời Gehlen các chữ cái từ A đến F được dùng để đánh
giá tình hình và độ tin cậy của nguồn thông tin. Nếu nói đến các cuộc hội
đàm chính phủ, thì A là người tham gia, B là phiên dịch, C là thư ký, D là
nhân viên thường, E và F biểu thị loại thông tin tiêu cực, trong đó nguồn tin