cho rằng ngọn đèn chính là để chỉ rõ địa điểm quân Sở đang đứng, nếu
tắt đi thì quân Hán không biết đường nào mà tiến đánh nữa. Long Thư
nghe theo Chu Lan, vung dao chém tắt ngọn đèn.
Không ngờ đó chính là hiệu lệnh cho quân Hán tháo nước trên
thượng nguồn, quân Sở ôm nhau kêu khóc vang trời, đành chịu cho
thác nước dữ dội cuốn như cỏ rác. Hóa ra Hàn Tín đưa ra một loạt kế
sách liên hoàn để quân Sở chui đầu vào bẫy. Long Thư nhờ có con
Long câu nên nhảy thoát khỏi dòng nước nhưng cuối cùng cũng không
thoát được cái chết bởi Hàn Tín đã cho Tào Tham và Hạ Hầu Anh mai
phục ở bên bờ sông từ lâu.
Khi đã chiếm xong 70 thành của nước Tề, Hàn Tín nhìn phong
cảnh kinh đô Lâm Tri huy hoàng chẳng khác gì Hàm Dương thì ít
nhiều trong bụng đã phát sinh lòng tham muốn. Lại có một mưu sĩ đất
Tề tên là Khoái Kiệt đến hầu, nói:
– Chẳng lẽ Nguyên soái công trạng lớn như vậy mà cứ cam tâm
dưới người hay sao? Nguyên soái không biết rằng “Chim muông hết
thì chó săn bị đem ra làm thịt” hay sao. Nhân lúc này Hán và Sở đều
kiệt quệ, Nguyên soái tự lập cơ nghiệp, chia thiên hạ thành thế chân
vạc thì chẳng bao giờ còn lo lắng gì nữa, có phải hay hơn không?
Còn đang do dự thì Hàn lại tiếp được lệnh phải kéo hết binh mã
về hợp sức đánh Sở, ông liền theo lời của Khoái Kiệt yêu cầu phải
được phong làm Tề vương. Đây là nguyên nhân quan trọng để Lưu
Bang ghi nhớ thù hận và diệt trừ Hàn Tín sau này. Lúc đó ở Huỳnh
Dương, Lưu Bang thua luôn mấy trận, tuy rất tức tối nhưng vẫn phải
phong cho Hàn Tín làm Tề vương.
Với tài năng quân sự lừng lẫy của Hàn Tín, chẳng bao lâu Hạng
Võ phải chấp nhận chia đôi thiên hạ, lấy ranh giới Hồng Câu làm phân
định. Thật sự hiệp ước này không hề được hai bên tôn trọng, vì vậy
lâu lâu lại xảy ra chiến tranh, cuối cùng sức mạnh của Hạng Võ suy
yếu dần vì mất hết tay chân tài giỏi ở bên mình.