đến gần xem sao. Lý Quảng trổ tài thần tiễn bắn chết tên này khiến cả
một đạo quân hung hãn đều khiếp sợ, đứng im cho ông ung dung cưỡi
ngựa ra về. Thái độ của Lý Quảng quá thản nhiên khiến quân Hung
Nô lại càng nghi ngờ, ngay đêm hôm đó rút ra xa để đề phòng. Sự
bình tĩnh và quyền biến của Lý Quảng nổi danh từ lúc ấy, vì vậy khi
Hán Võ đế lên nối ngôi thì cho ông giữ chức Vệ úy trấn giữ Nhạn
Môn quan.
Vào năm 140 trước Công nguyên, Lưu Triệt lên ngôi, xưng hiệu
là Hán Võ đế. Ông là người hùng tâm tráng chí, cương quyết đến độ
tàn nhẫn, điển hình nhất là việc tướng Lý Lăng dẫn quân đi đánh Hung
Nô, vì quá ít quân, lại bị bao vây tứ phía nên đành phải đầu hàng. Thế
mà Hán Võ đế bắt tội cả nhà họ Lý đem giết hết. Sử quan là Tư Mã
Thiên chỉ nói vài lời tỏ vẻ bênh vực, cho rằng Lý Lăng lâm vào tình
trạng bất đắc dĩ mà thôi, liền bị Hán Võ đế khép vào tội bị “cung
hình” (tức bị hoạn), suốt đời mang mối ô nhục ấy cho đến nhắm mắt.
Với hùng tâm này, Hán Võ đế quyết định mở một chiến dịch lớn
lao, huy động toàn quốc vào cuộc chiến tranh với Hung Nô. Ông chủ
trương phải đánh đến tận sào huyệt của Hung Nô ở mãi trong sa mạc
hoang vu để diệt tận gốc. Do vậy Hán Võ đế huy động gần hết số trai
tráng trong nước, chi phí cho chiến dịch này hết sức tốn kém, làm cho
ngân khố suy giảm thậm tệ. Tuy sau cùng chiến dịch thành công
nhưng đó là bước đầu làm cho nhà Hán suy sụp dần dần, đến khi Hán
Chiêu đế Lưu Phất Lăng lên nối ngôi thì hầu như ngân khố đã trống
rỗng, kéo theo tình trạng nhân dân đói khổ.
Hán Võ đế lên ngôi rồi vẫn trọng dụng Lý Quảng cùng với các
danh tướng khác như Lý Lăng, Hoắc Khứ Bệnh, Vệ Thanh. Lúc đó
quân Hung Nô phát triển rất mạnh, vừa đông đảo vừa giỏi về kỵ binh
nên tiến lui như chớp nhoáng, thường hay tập hợp số đông tấn công
một điểm nào đó rồi nhanh chóng rút lui ngay, quân triều đình muốn
truy kích cũng không được.