thò vào túi gấm lấy ra cái hộp gỗ, trong đó đựng chiếc ấn bằng ngọc.
Tay cầm chạm khắc năm con rồng uốn lượn, mặt ấn khắc tám chữ:
“Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương”. Tôn Kiên là tướng nên hoàn
toàn không biết ngọc ấn ấy ra sao, bèn đi hỏi Trình Phổ, được cho biết:
– Đó là viên ngọc tỷ truyền quốc của Văn vương nước Sở, làm
bằng viên ngọc họ Hòa. Năm thứ 26, Tần vương chiếm được cho làm
ấn quốc bảo, chính tay Lý Tư viết tám chữ ấy. Đến năm thứ 28, Thủy
Hoàng đế tuần du Động Đình hồ, thấy có gió dữ bèn ném xuống và
yểm trấn. Thế nhưng đến năm 38 bất ngờ có người đem trả lại. Viên
ngọc ấn này truyền đời từ Hán Cao đế Lưu Bang đến Vương Mãng,
Hiếu Nguyên đế rồi sau vào tay Quang Võ đến Lưu Tú. Đến lúc bọn
Thập Thường thị làm loạn triều đình thì tự nhiên ngọc ấn mất tích.
Nay ông được ngọc ấy thì là trời ban cho giang sơn, hãy về Giang
Đông mà lập quốc.
Thế nhưng Viên Thiệu biết chuyện này và do vậy xảy ra cuộc
đánh nhau giữa ông ta và Tôn Kiên. Sau đó Tôn Kiên trốn về Giang
Đông, Viên Thiệu cũng kéo quân đến Quan Đông cát cứ. Từ đấy triều
đình Giang Đông được thành lập và truyền lại cho Tôn Quyền. Cha
ông của Chu Du đi theo Tôn Kiên, trở thành công thần của triều đình
Giang Đông.
Chu Du được thừa hưởng tập ấm của cha ông, rất hâm mộ danh
tướng Tôn Sách và Mã Viện đời Hán. Khi Tôn Sách nắm binh quyền
thì liền mời Chu Du ra phụ tá, phong làm Kiến Uy Trung lang tướng,
chỉ huy một đoàn quân. Có thể nói, ngay từ lúc còn nhỏ tuổi, mới vừa
24, Chu Du đã đặc biệt được đảm nhận chức tướng, do vậy có nhiều
kinh nghiệm trong việc điều động ba quân. Mẹ của Tôn Sách là Tái
phu nhân lúc ấy nắm quyền triều chính cũng rất mến mộ Chu Du,
thường hay nói với con là Tôn Quyền phải trọng dụng Chu Du làm trụ
cột cho quốc gia.
Trong số các công thần có Trình Phổ là người già dặn kinh
nghiệm, tuổi cao đức trọng nhưng lại rất hay xung khắc với Chu Du,