ta là so sánh các địa chỉ người nhận với các cơ sở dữ liệu sẵn có và xác định
xem những địa chỉ này có còn giá trị giao hàng hay đã được gắn cờ vô hiệu.
Cái khó ở đây là, cơ sở dữ liệu mỗi tuần sẽ tăng thêm khoảng một trăm hoặc
hơn một trăm địa chỉ mới, một vài trong số đó có cùng tên khách hàng, và
chẳng qua là họ được liệt kê vào danh sách dưới một cái tên khác. Thêm
nữa, mỗi tuần lại có khoảng một hoặc hai thùng bưu phẩm được gửi trở lại
văn phòng của anh ta.
Khái niệm “văn phòng” ở công ty Nate được định nghĩa theo rất nhiều
cách. Chúng là những căn phòng với những vách ngăn cồng kềnh đã bị
phồng rộp, được tận dụng từ những khu văn phòng của một công ty lớn nào
đó. Mỗi mặt tường quá khổ và chân đế của mỗi bức vách chiếm khá nhiều
diện tích khiến cho căn phòng trở thành một điển hình cho một khuôn viên
làm việc không được sử dụng hiệu quả. Anne và Zack, hai nhân viên bán
thời gian khác, phải nghiêng sang một bên để có thể lách người vào ô làm
việc của mình. Jimmy, nhân viên tập sự văn phòng, phải trèo qua những
chiếc ghế để vào đến chỗ ngồi của mình. Nate ngồi tại vị trí ô làm việc gần
ngay cửa, vì chẳng ai muốn vật lộn để di chuyển những hòm thư báo từ vị trí
này qua vị trí khác.
Anh ta vớ lấy một bó thư báo và nghe thấy một tiếng thở dài phía sau.
Anh ta đã cố gắng để không bị phân tâm bởi tiếng thở dài ấy.
“Tôi đã cố gọi cho anh vào đêm qua,” Eddie nói.
Eddie là một ông chủ tồi tệ nhất. Ông ta cứ nghĩ mình là một người hào
phóng, một người đàn ông tốt với một vốn hiểu biết chắc chắn về kinh
doanh. Thực tế ông ta là một người quản lý tầm trung keo kiệt cũng có vài ý
tưởng không tồi, và chuyên đi soi mói từng li từng tí. Nate vừa chân ướt
chân ráo làm việc trong văn phòng này mới được hai tuần thì đã nghe ông ta
“giảng đạo” về việc anh ta không chú tâm vào công việc và đạt được các
mục tiêu đã đề ra như thế nào. Ông ta phản đối một số thuật toán rất đơn
giản và chỉ ra rằng sự mong đợi của ông ta về hiệu suất làm việc là điều