học Nga. Năm 1910 ông xuất bản thiên truyện Làng, một bức tranh
chân thực về cuộc sống nông thôn nước Nga; tác phẩm trở thành chủ
đề bàn luận sôi nổi của giới trí thức Nga về thực chất xã hội Nga và chỉ
trong một thời gian rất ngắn đã khiến I. Bunin nổi tiếng; thành công
này được tiếp tục phát huy ở các tác phẩm tiếp theo.
Bunin đi du lịch nhiều nơi, làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi
tiếng. Năm 1909 được bầu làm Viện sĩ danh dự của Viện hàn lâm
Khoa học Nga. Sau cách mạng tháng Mười ông di cư sang Pháp và
tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị. Tập truyện Những con
đường rợp bóng được tặng giải Nobel được viết trong thời kỳ này.
Ngoài văn, thơ Bunin còn nổi tiếng là một dịch giả thơ bậc thầy. Bản
dịch Bài ca về Hiawatha (The Song of Hiawatha) của Henry
Wadsworth Longfellow được tặng Giải thưởng Puskin. Những năm
cuối đời, I. Bunin viết một số truyện ký độc đáo và sâu sắc về các danh
nhân Nga như L. Tolstoi, A. Sekhov... Năm 1951 ông được bầu là Hội
viên danh dự số một của Hội Văn bút quốc tế.
Ivan Bunin là nhà văn Nga đầu tiên được nhận giải Nobel Văn học.
Ông mất ngày 8-11-1953 ở Pháp.
Tác phẩm:
- Dưới bầu trời rộng mở (Под открытым небом, 1891), tập thơ.
- Nơi cuối trời và các truyện ngắn khác (На край света и другие рассказы, 1897), tập truyện.
- Những quả táo Antonov (Антоновские яблоки, 1900), truyện ngắn.
- Lá rụng (Листопад, 1901), tập thơ.
- Làng (Деревня, 1910), truyện vừa.
- Sukhodol (Суходол, 1911), truyện vừa.
- Quý ông từ San Francisco (Господин из Сан-Франциско, 1915), truyện vừa.
- Hơi thở nhẹ (Легкое дыхание, 1916), truyện ngắn.
- Hoa hồng Jericho (Роза Иерихона, 1924), tập truyện.
- Tình yêu của Mitia (Митина любовь, 1926), truyện vừa.