23 VẤN ĐỀ HỌ KHÔNG NÓI VỚI BẠN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN - Trang 58

hôn đang trong độ tuổi lao động chính (35- 44 tuổi), làm việc ngoài xã hội,
từ một vài phần trăm vào cuối những năm 1890 hiện đã tăng lên gần 80%.

[11]

Cơ cấu nghề nghiệp của nữ giới cũng thay đổi một cách đáng kể khi xã

hội vẫn phát triển tốt với số lượng người giúp việc ít hơn rất nhiều, như
chúng ta đã thấy ở trên - ví dụ trong những năm 1870, gần 50% phụ nữ làm
việc tại Mỹ là làm “giúp việc và tiếp viên” (hầu hết mọi người trong số đó
là giúp việc chứ không phải là tiếp viên, bởi vì thời điểm đó nhà hàng ăn
uống chưa phải là một hình thức kinh doanh lớn).

[12]

Sự tham gia của phụ

nữ vào thị trường lao động tăng chắc chắn sẽ làm tăng vị thế của họ ở cả
trong gia đình và trong xã hội, do đó cũng làm giảm ưu đãi cho trẻ em nam
và tăng đầu tư giáo dục cho trẻ em nữ mà kết quả sau đó sẽ là sự gia tăng
hơn nữa sự tham gia của nữ giới vào thị trường lao động. Ngay cả những
người phụ nữ, những người được đào tạo nhưng cuối cùng vẫn lựa chọn ở
nhà chăm sóc con cái, cũng có địa vị cao hơn trong gia đình, vì họ có thể
tạo ra các mối đe dọa thực sự rằng họ có thể tự nuôi sống bản thân nếu họ
quyết định chia tay người bạn đời của mình. Với những cơ hội việc làm bên
ngoài, chi phí cơ hội khi có con cũng tăng lên, khiến cho các gia đình có ít
con hơn. Tất cả những điều này đã thay đổi chức năng của gia đình truyền
thống. Tóm lại, chúng đã tạo nên những thay đổi thật sự mạnh mẽ.

Tất nhiên, tôi không nói rằng những thay đổi xảy ra chỉ vì - hoặc thậm chí
chủ yếu vì - những thay đổi công nghệ của thiết bị gia dụng. Thuốc tránh
thai và các hình thức tránh thai khác có một tác động mạnh mẽ đối với quá
trình học tập và sự tham gia vào thị trường lao động của phụ nữ bằng cách
cho phép họ kiểm soát khoảng cách và số lần sinh con. Và còn có các
nguyên nhân không liên qua đến công nghệ nữa. Ngay cả với cùng một
công nghệ phục vụ gia đình, các nước có thể có tỷ lệ nữ giới tham gia vào
thị trường lao động khá khác nhau và cấu trúc nghề nghiệp khác nhau, tùy
thuộc vào những thứ như những quan niệm xã hội liên quan đến việc chấp
nhận làm việc của tầng lớp phụ nữ trung lưu (phụ nữ nghèo luôn phải làm
việc), ưu đãi về thuế cho công việc được trả lương và việc nuôi con, và khả
năng kinh tế để nuôi con. Mặc dù có những nguyên nhân khác như chúng ta
đã đề cấp ở trên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận một sự thực rằng nếu

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.