Mỹ dài hơn đáng kể so với người Châu Âu. Nhu cầu của họ đối với hàng
hoá và dịch vụ trong giờ làm việc nhỏ hơn so với một số quốc gia Châu Âu.
Trong khi chúng ta có thể tranh luận xem đâu là lối sống tốt hơn - nhiều của
cải vật chất nhưng ít thời gian giải trí hơn (như ở Mỹ) hay ít của cải vật chất
nhưng nhiều thời gian giải trí hơn (như ở Châu Âu) - điều này cho thấy rằng
Mỹ không có mức sống cao hơn rõ rệt so với các nước giàu có khác.
Những con đường không lát bằng vàng
Từ năm 1880 đến năm 1914, đã có gần 3 triệu người Ý di cư đến Mỹ. Khi
họ đến nơi, nhiều người trong số họ đã thất vọng cay đắng. Ngôi nhà mới
của họ không phải là thiên đường như họ đã từng nghĩ. Người ta nói rằng
nhiều người trong số họ đã viết thư về nhà, nói rằng “những con đường
không chỉ không được lát bằng vàng, mà chúng còn chẳng được lát gì cả,
trên thực tế, chúng tôi là những người có nghĩa vụ phải lát chúng.”
Những người Ý nhập cư này không phải là những người duy nhất nghĩ rằng
Mỹ là nơi biến những giấc mơ trở thành sự thật. Hoa Kỳ trở thành quốc gia
giàu nhất thế giới chỉ vào khoảng năm 1900, nhưng ngay cả trong những
ngày đầu mới khai sinh, nó đã có một vị trí quan trọng trong trí tưởng tượng
của người dân nghèo ở các nước khác. Trong thế kỷ thứ XIX, thu nhập bình
quân đầu người của Mỹ vẫn chỉ ở mức trung bình của Châu Âu và thấp hơn
khoảng 50% so với của Anh và Hà Lan. Nhưng những người nghèo ở Châu
Âu vẫn muốn chuyển đến đó bởi vì nước này có một nguồn đất đai gần như
vô hạn (vâng, nếu bạn đã sẵn sàng để đuổi những người Mỹ bản địa đi) và
một tình trạng thiếu lao động trầm trọng, điều này có nghĩa là mức lương ở
đây cao hơn ba hoặc bốn lần so với mức lương ở Châu Âu (xem Vấn đề 7).
Quan trọng nhất, sự vắng bóng của những tàn dư phong kiến có nghĩa là đất
nước này có tính linh hoạt xã hội cao hơn nhiều so với các nước thuộc Thế
giới Cũ, như đã được ca ngợi trong sự hình dung về miền đất hứa Mỹ.
Không phải chỉ những người nhập cư bị hấp dẫn bởi nước Mỹ. Đặc biệt
trong vài thập kỷ qua, các doanh nhân và các nhà hoạch định chính sách