năng suất của mình thì chủ nghĩa tư bản không thể hoạt động tốt được.
Người ta gần như có thể tin vào những lập luận trên nếu người ta có một
chút nhượng bộ - bỏ qua các sự thật.
Tôi không phản đối rằng một số người có hiệu suất làm việc cao hơn những
người khác và họ cần được trả công nhiều hơn - đôi khi nhiều hơn rất nhiều
(mặc dù họ không nên quá tự mãn về điều đó - xem Vấn đề thứ 3). Câu hỏi
thực sự là liệu mức chênh lệch hiện tại có hợp lý không.
Hiện tại, việc cộng gộp mức lương điều hành một cách chính xác là điều rất
khó. Trước hết, việc tiết lộ mức lương điều hành không phải là đúng đắn
lắm ở nhiều quốc gia. Khi chúng ta nhìn vào mức thù lao nói chung, chứ
không chỉ tiền lương, chúng ta cần phải bao gồm cả quyền mua cổ phiếu
với giá ưu đãi. Quyền mua cổ phiếu với giá ưu đã cho phép người nhận
quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty trong tương lai, vì
vậy chúng không có một giá trị chính xác ở hiện tại và giá trị của chúng cần
phải được ước tính. Tùy thuộc vào phương pháp ước tính được sử dụng,
việc định giá có thể khác nhau rất nhiều.
Như đã đề cập trước đó, dựa vào những ước tính này, tỷ lệ thù lao của các
Giám đốc điều hành (tiền lương, tiền thưởng, lương hưu và quyền mua cổ
phiếu ưu đãi) so với mức thù lao của người lao động trung bình (lương và
các quyền lợi khác) ở Mỹ thường cao hơn khoảng 30 - 40 lần vào những
năm 1960 - 1970. Tỷ lệ này đã bắt đầu gia tăng với tốc độ rất nhanh kể từ
đầu những năm 1980, gấp khoảng 100 lần vào đầu những năm 1990 và tăng
lên 300 - 400 lần vào những năm 2000.
Điều này tương phản với những thay đổi trong mức thù lao mà các công
nhân Mỹ nhận được. Theo Viện Chính sách Kinh tế (EPI), một tổ chức
trung tả có trụ sở tại Washington, tiền lương trung bình theo giờ cho công
nhân Mỹ tính theo đồng đô la năm 2007 (có nghĩa là đã được điều chỉnh
theo lạm phát) tăng từ $18,90 năm 1973 lên $21,34 năm 2006, tăng 13%
trong 33 năm, tương đương khoảng 0,4% mỗi năm.
chí còn ảm đạm hơn khi chúng ta nhìn vào toàn bộ khoản thù lao (tiền