điểm tôi viết cuốn sách này (đầu năm 2010), theo ước tính của IMF nền
kinh tế nước này sụt giảm với tốc độ là 8,5% trong năm 2009, một tốc độ
suy giảm nhanh nhất trong số các nước giàu.
Bản chất nguy hiểm của xu thế tài chính Iceland kể từ cuối những năm 1990
ngày càng sáng tỏ. Tài sản ngân hàng đã đạt mức tương đương với 1000%
GDP trong năm 2007, gấp đôi so với của Vương quốc Anh, một trong
những nước có ngành ngân hàng phát triển nhất thế giới. Hơn nữa, mở rộng
tài chính của Iceland đã được thúc đẩy bởi việc vay vốn nước ngoài. Từ
năm 2007, nợ nước ngoài ròng (các khoản nợ nước ngoài trừ đi các khoản
cho vay nước ngoài) đạt gần 250% Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP), tăng từ
50% của GDP năm 1997. Các nước đã thất bại hoàn toàn trong việc kiểm
tình hình với mức độ thấp hơn nhiều - các khoản nợ nước ngoài tương
đương với 25% GDP ở Hàn Quốc và 35% GDP ở Indonesia vào đêm trước
của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Bên cạnh đó, bản chất
mờ ám của các giao dịch tài chính đằng sau sự thần kỳ kinh tế của Iceland
đã được hé lộ - thường thì những khách hàng vay tiền lớn của các ngân
hàng chính là những cổ đông chủ chốt của các ngân hàng đó.
Ðộng cơ mới của tăng trưởng?
Tại sao tôi dành quá nhiều thời gian để nói về một hòn đảo nhỏ với chỉ hơn
300.000 người, nơi mà thậm chí không có một nhà ga xe lửa hay một cửa
hàng McDonald, cho dù sự thăng trầm của nó có ấn tượng đến mức độ nào?
Đó là bởi vì Iceland là hình ảnh thu nhỏ của những vấn đề nổi cộm trong
quan điểm về tài chính hiện đang chiếm ưu thế.
Cho dù câu chuyện của Iceland nghe có vẻ lạ lùng đến đâu thì đất nước này
cũng không đơn độc trong việc thúc đẩy tăng trưởng bằng cách tư nhân hóa,
tự do hóa và mở cửa khu vực tài chính trong một hoặc hai thập kỷ qua.
Ireland cũng đã cố gắng trở thành một trung tâm tài chính khác thông qua
một chiến lược tương tự, với các tài sản tài chính tương đương 900% GDP
trong năm 2007. Cũng giống như Iceland, Ireland cũng đã có một sự sụt