tài sản cá nhân của mình để trả tất cả các khoản nợ) mà còn cả tự do cá
nhân nữa (họ có thể bị đi tù nếu không trả được các khoản nợ của mình).
Mặc dù vậy, nó gần như là một phép lạ khiến mọi người đều muốn mở công
ty.
Thật không may, ngay cả sau khi khái niệm trách nhiệm hữu hạn ra đời, nó
vẫn rất khó sử dụng trong thực tế mãi cho tới giữa thế kỷ XIX - bạn cần một
điều lệ của hoàng gia (hoặc điều lệ của chính phủ trong một nước cộng hòa)
để thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn. Người ta tin rằng những
người quản lý một công ty trách nhiệm hữu hạn mà không sở hữu nó 100%
sẽ gặp những rủi ro lớn, bởi vì một phần tiền họ đem ra mạo hiểm không
phải là của riêng họ. Đồng thời, các nhà đầu tư không nắm quyền quản lý
trong công ty trách nhiệm hữu hạn cũng sẽ trở nên ít cảnh giác trong việc
giám sát các nhà quản lý vì rủi ro của họ đã bị giới hạn (ở các khoản đầu tư
tương ứng). Adam Smith, cha đẻ của kinh tế học và vị thánh của chủ nghĩa
tư bản thị trường tự do, đã phản đối trách nhiệm hữu hạn dựa trên những
luận điểm này. Ông có một câu nói nổi tiếng rằng “các giám đốc của các
công ty [cổ phần]... là các nhà quản lý tiền của người khác chứ không phải
tiền của chính họ, người ta cũng không thể mong đợi rằng những vị giám
đốc này sẽ kiểm soát khoản tiền này với sự thận trọng cao độ như những vị
giám đốc trong công ty cổ phần tư nhân (private copartnery) [mà quan hệ
đối tác của nó đòi hỏi trách nhiệm vô hạn] thường chú tâm đến tiền của
mình”
Do đó, các nước thường chỉ cấp “trách nhiệm hữu hạn” cho các liên danh
đặc biệt lớn và mạo hiểm, được coi là phục vụ cho lợi ích quốc gia, như
Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập năm 1602 (và đối thủ của nó là Công ty
Đông Ấn Anh) và Công ty Biển Nam nổi tiếng của Anh, một bong bóng
đầu cơ mà vào năm 1721 đã để lại tiếng xấu cho các công ty trách nhiệm
hữu hạn đến tận các thế hệ sau.
Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của ngành công nghiệp
quy mô lớn như đường sắt, thép và hóa chất, nhu cầu về trách nhiệm hữu