hạn dường như ngày càng tăng. Rất ít người có đủ tài sản để có thể đơn
thương độc mã mở một nhà máy thép hoặc một đường sắt, vì vậy, bắt đầu là
Thụy Điển vào năm 1844 và theo sau là Anh vào năm 1856, các nước Tây
Âu và Bắc Mỹ đã phổ biến hình thức trách nhiệm hữu hạn- chủ yếu là vào
những năm 1860 và 1870.
Tuy nhiên, sự nghi ngờ về trách nhiệm hữu hạn tiếp tục kéo dài. Thậm chí
đến tận cuối thế kỷ XIX, một vài thập kỷ sau khi trách nhiệm hữu hạn trở
nên phổ biến, các doanh nhân nhỏ ở Anh “những người, đang tích cực điều
hành một doanh nghiệp và cũng là chủ sở hữu của doanh nghiệp này, tìm
cách hạn chế trách nhiệm trả nợ của mình bằng một công cụ của công ty
[trách nhiệm hữu hạn]” đã bị phản đối, theo lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn
của tinh thần doanh nhân Tây Âu.
Thật thú vị, một trong những người đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của
trách nhiệm hữu hạn đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là Các-Mác,
người được coi là kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa tư bản. Không
giống như nhiều người ủng hộ thị trường tự do đương thời (và trước đó là
Adam Smith), những người phản đối trách nhiệm hữu hạn, Mác hiểu được
rằng trách nhiệm hữu hạn sẽ cho phép huy động một khoản vốn lớn cần
thiết cho ngành công nghiệp nặng và hóa học mới nổi bằng cách giảm rủi ro
cho các nhà đầu tư cá nhân. Viết ra vào năm 1865, khi thị trường chứng
khoán vẫn còn đóng một vai phụ trên sân khấu của chủ nghĩa tư bản, Mác
đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của mình khi gọi công ty cổ phần là “bộ
máy sản xuất của tư bản chủ nghĩa trong sự phát triển cao nhất của mình.”
Giống như những người phản đối thị trường tự do, Mác đã nhận thức được,
và chỉ trích, xu hướng khuyến khích các nhà quản lý chấp nhận rủi ro quá
mức của trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, Mác coi nó là một tác dụng phụ
của quá trình phát triển vật chất khổng lồ mà sự đổi mới thể chế sắp mang
lại. Tất nhiên, trong khi khuyến khích sự tích lũy tư bản “mới” chống lại
những lời chỉ trích về thị trường tự do, Mác đã có một động cơ kín đáo.
Ông nghĩ rằng công ty cổ phần là một “điểm chuyển tiếp” sang chủ nghĩa
xã hội mà ở đó nó tách quyền sở hữu ra khỏi quyền quản quản lý, từ đó có