Ông được tôn xưng là Vạn Cổ Đơn Kinh chi tổ.
Ông phân biệt Luyện Đơn với các phương thuật như Âm đạo, Thực Khí,
Bộ Đẩu, Tế Lễ v. v. . . Mà ông cho là «những chuyện Nghịch thiên cơ, vi
phản lại Đạo Giáo» (Bội nghịch thất khu cơ, tiền khước vi Hoàng Lão), là
Bàng Môn tả đạo,
Chủ trương Tham Đồng Khế là đem triết học Chu Dịch, hợp nhất với
Triết Học Lão Trang, là học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất, và phải tuân
hành các định luật vận chuyển, biến hóa của trời đất, và cũng phải biết hòa
hợp Âm Dương, đoạt tạo hóa chi công, và phản bản hoàn nguyên, phục qui
ư Hư Vô Chi Đạo.
Như vậy muốn luyện đơn, phải biết căn bản con người. Mà bản thể con
ngưởi là Thái Cực, Âm
Dương là Tinh Khí Thần (Hồn Phách) là Âm Dương, là Dược Vật của
Đơn Kinh, hay Kiền Khôn. Kiền Khôn mà phân ly, thì thành Vũ Trụ, Kiền
Khôn mà hợp nhất thì thành Thái Cực. Hòa Hợp Âm Dương chính là
«Nghịch Luyện Qui Nguyên».
Từ Ngụy Bá Dương, cho đến đời Nguỵ Tấn (220 - 313), thì khoa ngoại
đơn với các phép phục thực, phục khí thịnh hành, còn khoa nội đơn thì chỉ
có một số người tu tập. Mãi đến thời Trung Đường, khoa luyện đơn vói mấy
đạo sĩ danh tiếng như Trương Quả (Trương Quả Lão trong bát tiên) và La
công Viễn, đời Đường Huyền Tông (713 - 755) mới làm cho khoa nội đơn
tinh tiến.
Thời Vãn Đường (841 - 905) và thời Ngũ Đại (907 - 960) khoa Ngoại
đơn với chủ trương Phục Thực Thành Tiên bị thất bại, nên khoa nội đơn
mới thịnh hành.
Lúc ấy có những danh nhân như Hán Chung Li (Cuối đời Hán, thày của
Lữ Đồng Tân), Lữ Đồng Tân (780-?) Thi Kiên Ngô (đỗ Tiến Sĩ năm 815),
Thôi Hi Phạm (đời Đường), Bành Hiểu (?-955, đời Ngũ Đại (907 - 1119),