Học Trò Bạch Ngọc Thiềm, Ông đề cao chữ Trung. Mục đóich của Ông
là Trí trung Hòa vi nhất thân, thế là thành Tiên vậy. Trung tức là Huyền
Quan Nhất Khiếu; Phật gia gọi là Bản Lai Diện Mục; Đạo gia gọi là Niệm
Đầu bất khởi xứ; Nho gia gọi là: Hỉ nộ chi vị phát; Doãn Chân Nhân sư đệ
gọi là Tính Mệnh chi căn, hay Vô Cực chi Chân Trung; Huỳnh Nguyên Cát
gọi là Hoàng
Trung trực thấu; Dịch Kinh gọi là Hoàng Trung thông lý. Đó chính là
Giáo Ngoại biệt truyền. Chủ trương của môn phái này rất hay và rất cao.
Doãn Chân Nhân sư đệ và Huỳnh Nguyên Cát (1271 - 1355) cũng thuộc
Trung Phái.
Đông Phái, do Lục Tây Tinh, (Lục Tiềm Hư) (1520 - 1606) sáng tạo đời
Minh.
Tên Lục Tây Tinh, tự Trường Canh, hiệu Tiềm Hư.
Thủa nhỏ học Nho, nhiều lần thi Hương không đỗ, bèn đi tu, lập môn
phái riêng. Vì hoạt động tại vùng Giang, Triết nên xưng là Đông Phái.
Đông phái kỳ thực là một chi nhánh của Nam Tông, lấy Ngộ Chân Thiên
làm căn bản. Gọi
Khảm là Chân Khí, là Diên, là con gái, là Nguyệt. Gọi Ly là Chân Tinh,
là Hống, là con trai, là Nhật. Như vậy, đơn đạo chẳng qua là Âm Dương mà
thôi. Đó là thuyết Thủ Khảm Điền Ly. Như vậy, phái này chủ trương Âm
Dương Nam Nữ song tu. Phái này chủ trương: Đồng loại tương hợp nhi
thành, trúc phá trúc bổ, Nhân phá nhân bổ.
Có sách ghi khi Ông ẩn cư trong núi, Lữ Đồng Tân hiện ra và trú ở Bách
Hải Thảo Đường của Ông 20 ngày và truyền thụ cho Ông đơn quyết. Ông tu
luyện thêm 20 năm. Đến năm 1564, thì giác ngộ.
Ông viết nhiều sách: như Kim Đơn tựu chính thiên, như Chu Dịch Tham
Đồng Khế trắc sớ, Nam Hoa phụ mặc, Lăng Nghiêm kinh Thuyết Ước v. v.