trị vì lâu thứ ba trong lịch sử Trung Quốc chỉ sau Khang Hy và Càn Long
thời Thanh. Dưới triều đại Vũ Đế, uy danh nhà Tây Hán lên đến mức cực
thịnh.
Đông Phương Sóc (154 TCN - 93 TCN): học giả nổi tiếng thời Hán Vũ Đế,
là người đa mưu túc trí, tinh thông văn sử, nhưng cũng nổi tiếng với tính
cách hài hước và tài châm biếm. Ông được vua trọng dụng nhưng không
được đề bạt và bị liệt vào dạng lộng thần.
Hôi trong Kiếp Hôi nghĩa là tro bụi.
Kinh Lăng Nghiêm. Phẩm thọ lượng thứ 31.
Phù Tang: tên gọi của nước Nhật Bản thời cổ đại.
Trung Nguyên: chỉ Trung Quốc, theo quan niệm của người xưa, nền văn
minh Hoa Hạ là trung tâm của thế giới.
Nguyên văn: “Ngôn hạ vong ngôn nhất thời liễu. Mộng trung thuyết mộng
lưỡng trọng hư”. Trích hai câu trong bài Độc thiền kinh (Đọc kinh thiền) của
tác giả Bạch Cư Dị. Đại ý: Lời nói khi đã nói ra rồi thì cũng chẳng khác gì
mộng trong giấc mộng, tất cả đều là hư ảo.
Nguyên văn: “…Quân tu tảo chiết, nhất chi nùng diễm, mạc đãi quá phương
phi. Tứ trương ky, uyên ương chức tựu dục song phi, khả liên vị lão đầu tiên
bạch. Xuân ba bích thảo, hiểu hàn thâm xử, tương đối dục hồng y.”
Nguyên văn: “… Ngũ trương ky, phương tâm mật dữ xảo tâm kỳ. Hợp hoan
thụ thượng chi liên lý, song đầu hoa hạ, lưỡng đồng tâm xử, nhất đối hóa
sinh nhi. Lục trương ky…”
Cửu trương ky là tên một khúc từ thời Tống, được ghi chép trong Nhạc phủ
nhã từ dưới tên tác giả Vô danh thị. Cửu trương ky là chín khung cửi, chỉ
việc dệt vải. Trong tiếng Trung, ti là sợi, đồng âm với tư là nhớ, người xưa
hay dùng việc dệt vải để nói về tình cảm yêu đương nhung nhớ.
Nguyên văn: “Nhập ngã tương tư môn, tri ngã tương tư khổ. Trường tương
tư hề, trường tương ức. Đoản tương tư hề, vô cùng tẫn.” Dựa trên bốn câu
thơ trong bài Trường tương tư (Nhớ nhau đằng đẵng) của tác giả Lương Ý
Nương (Hậu Chu - Ngũ Đại). Nguyên tác: “Nhập ngã tương tư môn, tri ngã
tương tư khổ. Trường tương tư hề, trường tương tư. Trường tương tư hề, vô
tận cực.” Dịch thơ: “Bước vào cửa tương tư, mới biết tương tư khổ. Tương
tư hoài, dài tương tư. Tương tư dài, dài khôn xiết.” Người dịch: Vũ Ngọc
Khánh.
Nguyên văn: “Xuân y. Tố ti nhiễm tựu dĩ kham bi. Trần thế hôn ô vô nhan
sắc. Ứng đồng thu phiến, tòng tư vĩnh khí, vô phục phụng quân thì. Ca thanh
phi lạc họa lương trần. Vũ bãi hương phong quyển tú nhân. Canh dục lũ
thành ti thượng hận, tôn tiền hốt hữu đoạn tràng nhân. Liễm mệ nhi quy,
tương tương hảo khứ...”
Bích loa xuân: Một trong mười loại trà nổi tiếng của Trung Quốc, xuất xứ từ
vùng Động Đình sơn, Thái Hồ, tỉnh Giang Tô.
137