nhất thiên hạ, ông có tài quyền biến. Khi chỉ huy quân đội đánh
nước Sở, chỉ khiển trách họ không cống nạp các bó cỏ sả để lọc rượu
cho triều đình nhà Chu, vì ông hiểu rất rõ rằng chỉ trách nước Sở
một tội nhẹ như thế thì mới dễ dàng lui binh, nếu có đánh thật
chưa chắc nước Tề đã giành được chiến thắng. Càng về cuối
đời Tề Hằng Công càng sống xa hoa trụy lạc, ông cũng theo gương
vua sống xa hoa trụy lạc, nhưng thâm ý của ông là để người đời chê
bai ông mà bớt lên án nhà vua.
Tề Hằng Công tin dùng ba người là Dịch Nha, Kiên Điêu, Khai
Phương, chúng đều thuộc hạng tiểu nhân, suốt ngày cung phụng
cho vua gái đẹp, rượu ngon, bày tiệc tùng ca hát để mua vui, nhưng
Quản Trọng không hề can gián, ông nói: Khi người ta có chức
quyền trong tay, tránh sao khỏi ăn chơi hưởng lạc, thật khó ngăn
cản, chỉ cần để mắt công việc triều chính còn biết chăm lo cho
dân, còn tin tưởng vào kẻ thuộc hạ, thì bản thân họ chìm đắm trong
tửu sắc cũng có thể bỏ qua được, nếu can gián có thể gây ra xung
đột giữa nhà vua và bề tôi, làm hỏng cả việc lớn.
Đến khi hấp hối, Quản Trọng mới khuyên Tề Hằng Công
tránh xa ba tên nịnh thần đó, Hằng Công hỏi ông, vì sao không nói
điều này từ trước, ông trả lời rằng, vì thấy chúa công tin dùng
chúng, nhưng khi tôi còn sống, chúng không dám làm loạn, vì vậy
không cần phải ngăn trở bệ hạ gần gũi bọn chúng. Nhưng bây giờ
thần sắp chết, thì vua phải cẩn thận đề phòng mới được.
Danh tướng nhà Đường, Địch Nhân Kiệt, luôn luôn xứng danh là
kẻ bề tôi giỏi giang, biết hành động và biết giữ mình, ông phải
phụng sự nữ chúa Võ Tắc Thiên. Không kiêu căng tự phụ, mà cũng
không hạ mình khúm núm, biết xem xét thời thế để ứng xử, và làm
được nhiều việc ích nước, lợi dân. Một lần Hoàng đế Cao Tông đi
công cán ở cung Phần Dương, trên đường phải đi qua trước cửa đền
Bà chúa ghen, dân gian quan niệm rằng ai đi qua đó thường gặp tai