Chúng tôi đến làng này ngày 20 tháng 11, và từ căn cứ đó chúng tôi mở
một loạt những cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho
mọi sự di chuyển trở nên khó khăn. Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi,
dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị hòa mình với cuộc sống
của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi
được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, vì dân làng coi tất
cả mọi người như anh em.
Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng
tăm trong làng này, mà chúng tôi đã gặp ở vùng biên giới. Vì chúng tôi đã
yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà,
nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy gì
bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lý sang ở nhà bà và ở luôn tại đó
cho đến mãn cuộc hành trình.
Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một
tỉnh thành nhỏ ở vùng biên giới.Khi bà được giới thiệu với chúng tôi,
chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ mười tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp. Độc
giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi
được biết rằng thiếu phụ đã có trên bốn trăm tuổi và là một trong những
nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đã dành trọn cuộc
đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà
hằng ngày, chúng tôi đã hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy. Trong
lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính
của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể
nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết
rõ các vị Chân Sư, thì chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.
Chúng tôi đã có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài
với những tài liệu xác thật cũng như tập du ký này. Chúng tôi ở tại nhà
thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng 12
năm 1895 đến tháng tư năm 1896. Chúng tôi đã có dịp quan sát tỉ mỉ đời