này đều đổ vào vịnh Ba Tư qua những cửa sông khác nhau, như Arrian đã
thuật lại.
Xem Strabo 16.1.9-10; Herodotus 1.193. Strabo (16.1.11) mô tả, dựa trên
cứ liệu của Aristobulus, cách Alexander cải thiện được việc tưới tiêu của
vùng này.
Xem Strabo 16.1.9.
Curtius (10.2.12-30) và Diodorus (17.109), người đã bị bắt giữ sau bài diễn
văn của Alexander, nói rằng Alexander đã tự tay bắt những kẻ cầm đầu
cuộc nổi loạn. Về sự kiện này, xem Plutarch, Alexander 71.
Những mỏ vàng mỏ bạc tại núi Pangaeum gần Philippi được cho là đã
mang lại hơn 1.000 ta-lăng mỗi năm cho vị hoàng đế này (Diodorus 16.8.6).
Vào năm 346 TCN.
Chắc chắn, Alexander muốn nhắc tới đóng góp của mình trong trận
Chaeroneia vào năm 338; xem Plutarch, Alexander 9.2-4; Diodorus 16.86.
Demosthenes (Halonnesus 12) cho rằng đó là thời gian người Macedonia
phải nộp cống vật cho Athens. Người Thebes dưới sự chỉ huy của Pelopidas
đã dàn xếp ổn thỏa các sự vụ với người Macedonia vào năm 368. Philip đã
đóng vai trò là con tin tại Thebes vào các năm 368-365 TCN.
Về những sự kiện sau trận Chaeroneia, xem Wilcken, Alexander, từ tr.41.
Xem Curtius 10.2.24; Plutarch, Alexander 15.2. Về vấn đề tài chính của
Alexander, xem A. R. Bellinger, Essays on the Coinage of Alexander the
Great (New Yorck, 1963) tr.35.
Về sự xa hoa của các tướng lĩnh dưới quyền Alexander, xem Plutarch,
Alexander 42; Athenaeus 12.539; Aelian, Varia Historia 9.3.
Plutarch đã liệt kê những vết thương của Alexander trong Moralia 327a-b
và 341a-c.
Chắc chắn đây là một sự phóng đại. Chúng ta chỉ được nghe về lễ kỷ niệm
tại Susa (xem Quyển ba).
Nhưng dường như chỉ có 25 Chiến hữu hy sinh trong trận Granicus được
đúc tượng. Plutarch (Alexander 71.9) nói rằng Alexander đã trợ cấp một
khoản tiền cho con cái của những người đã hy sinh trong cuộc viễn chinh.