“Người thân/họ hàng” [Kinsman] là một danh hiệu mà vua Ba Tư ban cho
những người đứng đầu đất nước này. Curtius (3.3.14) cho rằng số lượng
những người này lên tới 15.000 người. Về nụ hôn theo phong tục, xem
Quyển bốn.
Tên gọi sau là dành cho vệ quân (hypaspists). Diodorus (17.57.2) sử dụng
tên gọi Những tấm khiên bạc cho vệ quân trong trận Gaugamela. Xem Tarn,
Alexander 2.151-2.
Đây rõ ràng là một sự phóng đại, trừ phi “những người Macedonia” được
hiểu là các sĩ quan người Macedonia.
Dạ yến này được tổ chức để kỷ niệm sự hòa giải giữa Alexander và những
người đồng hương Macedonia cũng như (hy vọng là) giữa người
Macedonia và người Ba Tư. E. Badian (Historia 1958, từ tr.428) đã bác bỏ
ý kiến của Tarn (Alexander 2. từ tr.434) rằng Alexander đã cầu nguyện cho
“sự đoàn kết của toàn nhân loại.” Về bài tụng ca sau dạ yến, xem
Xenophon, Symposium 2.2.1.
Theo mong muốn của Alexander; xem phần trước trong quyển này.
Xem Diodorus 17.114.1; Plutarch, Alexander 47.9-10; Curtius 6.8.2.
Craterus được cho là (Plutarch, Eumenes 6.3) sĩ quan được binh lính
Macedonia quý mến hơn cả vì sự chống đối của ông với cung cách ngày
một phương Đông hóa của Alexander.
Nghĩa là thay thế Antipater, trở thành người ủy quyền của Alexander trong
việc lãnh đạo Liên minh Corinth.
Vào thời điểm Alexander qua đời, khoảng chín tháng sau, Craterus vẫn
chưa đi quá vùng Cilicia.
Về mối bất hòa giữa Antipater và Olympias, xem Diodorus 17.118.1,
Plutarch, Alexander 40.11-13; Curtius 10.10.14. Về mối quan hệ giữa
Alexander và Antipater, xem E. Badien, JHS 1961, từ tr.36 và G. T.
Griffith, Proceedings of the African Classical Associations 1965, từ tr.12.
Có một trang bị mất kể từ dấu (*)
Xem Plutarch, Eumenes 2.
Từ Opis tới Ecbatana (Hamadan).