trong số họ đưa ra được đáp án đúng khi được yêu cầu nghĩ ra một
từ bắt đầu bằng chữ “F”. Một người trong số họ đã mất 36% trí
nhớ. Bốn người trong số họ dễ dàng bị lung lạc hơn nhiều so với
trước khi bị biệt giam. Họ tin vào mọi điều mà người đầu tiên họ
gặp sau khi bị nhốt nói với họ. Tôi thì chỉ gặp duy nhất hắn.
Khi đọc về các nghiên cứu và thí nghiệm này ngày nay, tôi sửng
sốt khi thấy mình đã sống sót được qua giai đoạn ấy. Về nhiều
mặt, cảnh ngộ của tôi chẳng khác gì hoàn cảnh mà những người lớn
ấy đã tự đặt ra cho họ để theo đuổi mục đích nghiên cứu. Ngoài
chuyện thời gian biệt lập của tôi dài hơn rất, rất nhiều, trường hợp
của tôi còn một yếu tố trầm trọng nữa: tôi tuyệt đối chẳng biết
tại sao chính mình lại bị run rủi rơi vào tình cảnh này. Trong khi các
tù nhân chính trị có chỗ dựa là sứ mệnh của họ, và những ai bị tù oan
cũng biết rằng phía sau họ là công lý, với hệ thống luật pháp, định
chế và tố tụng, tôi lại không tài nào nghĩ ra được bất kỳ một sự thù
địch nào hợp lý để khiến tôi phải rơi vào cảnh tù ngục. Không có một
yếu tố nào.
Có lẽ điều đã giúp tôi chính là tôi vẫn còn bé và có thể thích ứng
với hoàn cảnh khắc nghiệt nhất dễ dàng hơn người lớn. Nhưng
điều đó cũng đòi hỏi ở tôi một ý thức khắc kỷ mà, giờ đây nghĩ lại,
dường như thật phi nhân. Trong đêm, tôi thường dùng những
chuyến du hành tưởng tượng để đi vào bóng tối. Ban ngày thì tôi
ngoan cường đeo đuổi kế hoạch sẽ dành lại cuộc sống vào tay mình
vào ngày sinh nhật thứ 18. Tôi quyết tâm thu thập mọi kiến thức
cần thiết để làm chuyện đó, nên đòi tài liệu và sách giáo khoa. Bất
chấp cảnh ngộ, tôi vẫn kiên trì gìn giữ bản sắc cá nhân và hình ảnh
gia đình.