hướng về, sư can đảm đi về hướng đó. Đêm đó không ngủ, sư quyết định vật
lộn với kinh sợ. Trong những đêm kế đó, sư cũng giữ nguyên ý nguyện
chiến đấu, quyết không chùn bước, và cuối cùng sư thành công trong việc
“hỏa táng” nỗi sợ.
Câu chuyện trên có thật, nó cho thấy một vị tỳ khưu can đảm chiến đấu
như thế nào để tiêu trừ nỗi sợ. Lúc đầu bị nỗi sợ tràn ngập, nhưng cuối cùng
đảo ngược tình thế và khắc phục nỗi sợ. Đó là lợi ích của hạnh sống trong
nghĩa địa.
9.
M
ẶC TAM Y.
Ngài Acharn Mun hành trì hạnh đầu đà này ngay từ ngày xuất
gia. Chỉ đến lúc tuổi già, cơ thể gầy yếu dần, cần phải được ấm áp hơn và
chăm sóc nhiều hơn, Ngài mới tự cho phép mình bớt nghiêm khắc hơn với
chính mình và đắp thêm y. Vào thời của Ngài, quý vị tỳ khưu dhutaṅga
thích đi đó đây sống trong rừng, ngoại trừ trong mùa nhập hạ. Phần lớn là họ
đi bộ, vì lúc ấy không có phương tiện giao thông như ngày nay. Mỗi vị phải
mang theo đồ dùng của mình, không ai có thể giúp ai khác. Kích cỡ và trọng
lượng của đồ dùng mang theo phải được xem xét kỹ lưỡng vì nó có thể gây
trở ngại nhiều hơn là tạo lợi ích, nếu không thực sự là cần thiết. Sau một thời
gian, vị tỳ khưu dhutaṅga quen dần lối du phương gọn nhẹ và thích cho
người khác xiêm y và các vật dụng mà thiện tín dâng cúng. Đối với những vị
đã quen lối sống như vậy thì cất giữ và bận bịu mang theo những vật dụng
thừa quả thật là một gánh nặng. Điều này cũng thích hợp với pháp hành đặc
biệt của người tu ẩn dật, có một cuộc sống thanh bần và trong sạch. Vị tỳ
khưu mà sau khi viên tịch không còn để lại vật dụng nào khác hơn là tứ vật
dụng của một vị tỳ khưu thì càng được tôn sùng kính mộ. Khi còn tại tiền, vị
ấy được tán dương vì cuộc sống thanh bần Thánh thiện. Sau khi cơ thể tan
rã, vị ấy ra đi an lạc, vì tâm thảnh thơi buông xả, không dính mắc vào bất kể
cái gì của mình. Đó là chết giữa hoàn cảnh nghèo nàn và trong sạch, vị ấy
luôn luôn được chư thiên và người có giới đức cảm phục. Hạnh đầu đà này
là một vinh hạnh cho đời sống của nhà sư tu ẩn dật.
Ngài Acharn Mun thực hành hạnh đầu đà này rất nghiêm túc và vào thời
của Ngài, ít có ai bì kịp, mà đến tận ngày nay cũng không ai sánh bằng. Ngài
thường xuyên dạy các vị tỳ khưu đệ tử nên thận trọng quan tâm, tôn kính và