khách lạ đến viếng nơi này sẽ lấy làm ngạc nhiên thấy rằng hầu như không
có ai xung quanh, nếu khách tình cờ đến vào lúc không có họp, như lúc độ
thực chẳng hạn, hoặc giờ thuyết giảng. Ngoại trừ vào những giờ ấy, tất cả
đều bận thiền hành hoặc thiền tọa quanh chỗ của mình.
Trong giờ thuyết giảng, chỉ nghe tiếng của Ngài Acharn, còn các vị tỳ
khưu và sāmaṇera trong hội trường, dù đông bao nhiêu, đều ngồi hoàn toàn
yên lặng. Tiếng nói của Ngài và Giáo Pháp mà Ngài giảng làm cho cử tọa vô
cùng cảm kích và hoan hỷ, tất cả những người nghe đều say mê, thời gian
hình như ngừng trôi. Cơ thể không thấy mệt mỏi hay cứng tê. Tâm người
nghe hòa đồng với Giáo Pháp, mải mê nuốt mật ngọt của Giáo Pháp.
Mỗi buổi họp để nghe giảng đều kéo dài nhiều giờ và được xem là bài học
thực hành để trau dồi cả định và tuệ. Vì lẽ ấy, các vị tỳ khưu hạnh đầu đà
đặc biệt kính cẩn chú tâm lắng nghe với lòng nhiệt thành tôn trọng vị thiền
sư và luôn luôn vui sướng thọ nhận lời chỉ dạy của Ngài. Đối với các vị tỳ
khưu ấy, vị thiền sư là tất cả cuộc đời họ, và thậm chí còn hơn thế nữa. Ngài
Ānanda xưa kia sẵn sàng hy sanh mạng sống để cứu Đức Phật khỏi bị voi
hại khi Devadatta cho voi uống rượu say chạy tới, cũng do lòng sùng kính
trong sạch này.
Mức độ mà vị tỳ khưu hạnh đầu đà đặt trọn vẹn niềm tin của mình nơi
Ngài Acharn được thấy rõ ràng trong cách họ vâng lời thi hành những chỉ thị
của Ngài. Mỗi khi Ngài bảo vị nào đi đến hay ở lại hang động hay vùng
rừng núi nào, vị ấy liền sẵn sàng và tự nguyện vâng lời ngay, dù tất cả mọi
người đều biết vùng ấy nguy hiểm đến đâu. Thay vì sợ chết, vị ấy rất hoan
hỷ được sự tin cậy của Ngài khuyến khích, biết chắc rằng sai biểu như vậy là
Ngài gián tiếp tiên đoán sự thành công sắp tới của mình. Sự tiên đoán này
cũng tương tự như lời tiên đoán của Đức Phật rằng Đức Ānanda sẽ thành tựu
Mục Tiêu Cùng Tột trong ngày Giáo Hội Tăng Già kết tập Tam Tạng Pháp
Bảo. Niềm tin trọn vẹn và hoàn toàn đặt nơi vị thiền sư là rất quan trọng đối
với hành giả vì nó củng cố năng lực của tâm định, gia tăng tiến bộ và do đó
rút ngắn thời gian và đỡ vất vả cho thiền sinh cũng như thiền sư. Niềm tin
như vậy tránh cho thiền sư phải lặp đi lặp lại lời giảng làm mệt người dạy
cũng như người được dạy.