D. E. Shaw & Co. là kiểu công ty “dòng 2,” và David E. Shaw, sáng
lập viên, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành và là mẫu ông chủ có
thể khích động trí tuệ và đam mê nơi Jeff. Dù Jeff không mấy mặn
mà lưu lại trong cộng đồng tài chính, một nhà tuyển dụng thuyết
phục anh là D. E. Shaw hoàn toàn khác biệt, và quả thực như vậy.
Đầu thập niên 1980, David Shaw, một tiến sĩ khoa học máy tính từ
Stanford University, đã điều hành một công ty phần mềm thành
công tên Stanford Systems Corporation, và đã tiếp cận những nhân
vật tương tự tại Stanford University như Leonard Bosack, đồng sáng
lập của Cisco Microsystems; Andreas Bechtolsheim, đồng sáng lập
của Sun Microsystems (và nay tại Cisco); và Jim Clack, nhà sáng lập
Silicon Graphics, Inc. và chủ tịch tiếp theo của Netscape. Ông phục
vụ phân ban của khoa học máy tính tại Columbia University trước khi
gia nhập công ty môi giới chứng khoán Morgan Stanley & Co.
năm 1986 với tư cách là phó chủ tịch phụ trách công nghệ tự đông
phân tích thương mại.
Năm 1988, với 28 triệu USD vốn khởi nghiệp, ông sáng lập D. E.
Shaw & Co. như một quỹ định lượng hạn chế. Cách kiếm tiền theo
nguyên tắc có tính bí quyết này là thu nạp những kỹ thuật như kinh
doanh chứng khoán theo thống kê, dùng những thuật toán phức tạp
(những gói công thức toán lập trình được thiết kế cho máy tính
thực hiện công năng đặc biệt nào đó) để theo dõi – và cơ bản để trợ
vốn – những chênh lệch nhỏ xíu trong cổ phiếu đang giao dịch.
Chẳng hạn, nếu cổ phiếu của Microsoft là 99,50 USD ở New York
và 100 USD ở Tokyo, quỹ sẽ cùng lúc mua cổ phiếu ở New York và
bán sang Tokyo để bảo đảm lời 50 xu mỗi cổ phiếu (thấp hơn chi
phí chuyển đổi). “Theo truyền thống, các quĩ định lượng hạn chế
đã xây dựng những công cụ tinh vi, dựa trên máy tính để giúp người
giao dịch đi đến quyết định,” – Bezos nói. “Những gì D. E. Shaw &
Co. làm là chuyển đổi toàn bộ mô hình. Các nhà lập trình máy tính sẽ