+ là d, o là n
8 là e, § là o
3 là g, ( là r
4 là h, ; là t
“Như vậy chúng ta có mười chữ cái quan trọng nhất trong bản mật mã.
Tôi không cần phải nói cho anh biết phần cuối của việc tôi đã làm. Tôi đã
nói khá nhiều để anh biết rằng những loại mật mã như kiểu này rất dễ hiểu.
Anh biết nó được thành lập như thế nào rồi. Bản mật mã ở trước mắt chúng
ta đây rất giản dị. Nay tôi giải đáp hết bản mật mã trên tấm giấy da như dưới
đây:
A good glass in the bishop’s hostel in the devil’s seat twenty one degrees
and thirteen minutes northeast and by north main branch seventh limb east
side shoot from the left eye of the death’s head a beeline from the tree
through the shot fifty feet out. (Một cái ly tốt ở lữ quán của đức Giám mục
nơi cái ghế của con quỷ hai mươi mốt độ và mười ba phút hướng Đông Bắc
và phía Bắc cành cái nhánh thứ bảy về phía Đông ngắm từ mắt trái cái đầu
người chết một đường thẳng từ cái cây qua tầm xa mười lăm thước).
Tôi nói: “Những điều bí ẩn này vẫn còn khó hiểu quá. Làm sao có thể biết
được nghĩa những chữ lẩm cẩm ‘những cái ghế của con quỷ, những cái đầu
lâu, và những lữ quán của đức Giám mục?’”
William Legrand trả lời: “Tôi phải công nhận rằng nội dung bản này
không phải dễ hiểu gì? Tôi đã bắt đầu chia những chữ thành từng đoạn như
kẻ viết bản mật mã này đã cố ý chia ra như vậy.”
“Nhưng anh chia ra bằng cách nào?”
“Tôi biết rằng kẻ viết bản mật mã thường viết những câu liền với nhau để
không ai có thể đọc được bản mật mã. Một kẻ kém học thức lại hay làm thái
quá. Khi đến quãng nghỉ trong bản mật mã, hắn càng viết các dấu thật sát
nhau. Nếu anh nhìn tấm giấy da, anh có thể trông thấy ngay những chỗ có
dấu đặt sát nhau hơn thường lệ. Theo ý nghĩ này, tôi viết rõ những chữ như
sau: