Tôi luôn cho rằng là mục sư thì không nên lập gia đình. Nhưng vì sao tôi
lại hối thúc Griselda kết hôn với tôi chỉ sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ
quen nhau, đến bây giờ tôi cũng không hiểu nổi mình nữa. Với tôi, hôn nhân
là hệ trọng, cần tìm hiểu lâu dài và đắn đo cân nhắc rồi mới tiến tới chuyện
trăm năm, và nhất là phải hợp nhau về sở thích cũng như tính tình.
Griselda trẻ hơn tôi gần hai mươi tuổi. Nàng yêu kiều đến mức làm thiên
hạ điên đảo, nhưng lại hoàn toàn không có khả năng làm bất cứ việc gì cho
ra hồn. Chuyện gì nàng cũng vụng về, và sống với nàng nhiều khi thật mệt
mỏi. Nàng xem giáo khu như một thứ trò đùa lớn phục vụ thú tiêu khiển của
mình. Tôi đã cố uốn nắn nàng nhưng thất bại. Hơn bao giờ hết tôi càng tin
chắc tình trạng độc thân là điều giới tu hành ao ước. Tôi thường tìm cách
bóng gió như thế với Griselda, nhưng nàng chỉ cười to.
“Mình ạ,” tôi bảo, “giá như mình chịu khó tập để tâm một chút…”
“Thì em vẫn lưu ý đấy chứ,” Griselda đáp. “Nhưng nói chung em thấy
mình càng cố gắng thì mọi việc càng tệ hơn. Rõ ràng tính em không quản
được việc nhà. Vì thế em nghĩ tốt hơn hết cứ giao khoán mọi việc cho Mary
và chấp nhận sống làng nhàng cũng như ăn uống linh tinh cho xong mình ạ.”
“Còn chồng em đây thì sao hở mình?” Tôi hỏi giọng trách móc, rồi nhớ
lại một đoạn trích từ Kinh Thánh về ngày tàn của một con người khốn khổ
bất hạnh, tôi nói thêm: “Bà ta đã chăm sóc người thân của mình như thế
đó…”
“Nghĩ xem, mình không bị sư tử xé xác hoặc bị lên giàn hỏa thiêu là phúc
bảy mươi đời rồi nhé,” Griselda vội ngắt lời tôi. “Ăn uống không vừa
miệng, nhà cửa bụi bặm hay ruồi muỗi thì có gì ghê gớm mà phải làm ầm
lên cơ chứ! Mình kể tiếp em nghe về đại tá Protheroe đi. Dù sao, Cơ Đốc
giáo không có người trông giữ nhà thờ mà đâm ra lại hay.”
“Lão già cục súc vênh vang,” Dennis nói. “Chả trách bà vợ đầu của ông ta
phải bỏ của chạy lấy người.”
“Bà ta còn biết làm gì khác hơn thế nữa,” vợ tôi nói.
“Griselda, tôi không cho phép mình ăn nói thế đâu nhé,” tôi xẵng giọng.