L'espace, Hà Nội, 2008. Ngày ấy, tôi bỗng dưng quyết đi học
tiếng Pháp và dù bản thân có mơ ước đến học ở Paris, tôi cũng
không chắc mình thực hiện được. Hình vẽ tương lai của tôi mơ hồ,
với đủ kế hoạch bồng bột và suy nghĩ non dại. Số 3 thì khác. Kém
tôi hai tuổi nhưng anh có kế hoạch tương lai rõ ràng: một học bổng
bốn năm ở Pháp, chuyến bay cách đó sáu tháng và đến lớp học này
để chuẩn bị cho chuyến lên đường.
Tôi với Số 3 cảm nắng.
Mười chín tuổi, người con trai ấy có đôi mắt thông minh đủ làm
sáng bừng lớp học, đủ gây cảm hứng cho ông thầy người Pháp khó
tính và đủ làm cho tôi, một cô gái 21 tuổi luôn tự tin về trí thông
minh phải lùi bước. Thế nhưng cũng trong đôi mắt ấy, một chút tự
ti vẫn tồn tại khi nhìn thẳng vào mắt tôi. Nó lẩn trốn như thể tự
nhận ra nó lạc lõng biết bao bên nụ cười và khuôn mặt tuổi 19 ấy.
Số 3 gọi tôi là "chị", nhưng thường nói rất khẽ khi gọi tên tôi.
Anh, đôi lần, hỏi tôi về dự định tương lai. Tôi lơ đãng và mơ về một
Paris rất xa xôi trong cuốn giáo trình Festival bóng loáng.
Chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều. Lớp học chỉ dành
cho những ánh nhìn rất vội, những cử chỉ quan tâm ngại ngùng và
những câu tiếng Pháp trong giờ luyện nói. Nhưng tất cả không qua
khỏi đôi mắt tinh tường của ông thầy người Pháp. Ngày thi vấn đáp
giữa kỳ, ông bắt tôi đặt câu bằng tiếng Pháp: "Số 3 là bạn trai tôi".
Cú cảm nắng chỉ đủ nuôi cảm xúc của tôi trong mấy tuần, vài
trang nhật ký và những câu chuyện với cô bạn thân. Tiếng Pháp cũng
không dành cho những người dù yêu nhưng không hết lòng theo
đuổi. Hết kỳ, tôi bỏ học tiếng Pháp và giấc mơ học ở Paris. Số 3
theo tiếp chương trình cho đến ngày bay đi Pháp. Thậm chí, chúng
tôi cũng chưa từng gặp lại nhau ở Paris.