sắt nhỏ xíu dẫn vào khoang đèn, thụp người chui vào máy đèn. Anh mồi
lửa dưới đĩa dầu, hơi dầu bốc lên thành khí bám vào măng-sông. Rồi anh
bật que diêm châm vào măng-sông, biến hơi dầu thành ánh lửa sáng trắng.
Anh đi xuống tầng dưới, khởi động máy. Ngọn đèn bắt đầu quay với nhịp
điệu đều đặn, chính xác, lóe sáng mỗi lần năm giây. Anh cầm cây viết lên,
ghi vào cuốn sổ nhật ký bọc da lớn: “Bật đèn lúc 5 giờ 9 phút buổi chiều.
Gió hướng Bắc/ Đông Bắc, 15 hải lý trên giờ. Trời âm u, gió mạnh. Biển
động cấp 6.” Rồi anh thêm vào tên viết tắt của mình – “T.S.” Dòng chữ viết
tay của anh tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Whittnish, chỉ vài giờ trước đó,
và trước đó nữa là của Docherty – Tom đã trở thành một phần trong chuỗi
những người gác đèn không ngưng nghỉ, những nhân chứng của ngọn đèn.
Sau khi đã yên tâm là mọi thứ đã đâu vào đó, Tom trở về khu nhà ở. Anh
thấy buồn ngủ rũ rượi, nhưng hiểu rõ rằng nếu không ăn uống sẽ không làm
việc được. Trong kho bếp mấy lon thịt bò muối, đậu Hà Lan và quả lê
ngâm nằm trên kệ, cạnh bên mấy hộp cá, đường và một hũ kẹo bạc hà
cứng, nghe đâu bà Docherty quá cố rất thích thứ kẹo này. Bữa tối đầu tiên
trên đảo, anh cắt một khúc bánh mì không men nướng tro mà Whittnish để
lại, thêm một mẩu phô mai cứng và một quả táo héo nhăn nheo.
Trên bàn ăn trong bếp, ánh lửa đèn dầu thi thoảng lại chập chờn. Gió vẫn
đập vào cửa sổ, như đang trả mối thù từ xa xưa, đi kèm với những ngọn
sóng gào thét, ướt nhẹp. Tom thấy nhói lòng khi nghĩ rằng anh là người duy
nhất nghe được những âm thanh này: người sống duy nhất trong vòng một
trăm dặm quanh đó, tính theo mọi hướng. Anh nghĩ đến những con chim
hải âu rúc vào những chiếc tổ rơm rác trên vách đá, những con cá điềm
nhiên bơi lội trong bãi san hô, được bảo vệ bằng lớp nước lạnh như băng.
Mỗi sinh vật đều cần có chốn ẩn mình.
Tom mang đèn dầu vào buồng ngủ. Bóng anh in lên tường, như một tên
khổng lồ phẳng lì. Anh tháo đôi ủng và cởi quần áo ngoài, chỉ mặc quần lót
dài. Tóc anh bết đầy muối biển còn da khô khốc vì gió. Anh kéo thẳng tấm