kiệm được cả lương thủy thủ nữa. Ngọn đèn ở đây là để nhắc chừng họ, để
họ đi cho đúng đường.”
Qua mặt kính Isabel thấy mấy tấm màn đen nặng nề trong buồng đèn.
“Để làm gì vậy?” cô hỏi.
“Để bảo vệ! Thấu kính không phân biệt được ánh sáng nào cần khuếch
đại. Nếu nó có thể biến ngọn lửa nhỏ thành ánh sáng của triệu ngọn nến,
mình cứ hình dung ánh nắng mặt trời sẽ thành như thế nào vào ban ngày,
khi mà đèn đứng yên. Nếu đứng cách mười dặm thì chẳng hề gì. Nhưng
nếu chỉ cách gang tấc thì không ổn. Vậy nên phải bảo vệ ngọn đèn. Và bảo
vệ chính mình nữa – ban ngày nếu đi vào buồng đèn mà không có rèm phủ
hẳn sẽ bị rán chín. Mình vào đây, tôi chỉ cho xem.”
Cánh cửa sắt đóng sầm lại phía sau khi họ bước vào buồng đèn, đi tiếp
vào bên trong đèn.
“Đây là thấu kính bậc một – loại sáng nhất rồi đó.”
Isabel ngắm những dải cầu vồng tỏa ra từ các lăng kính. “Đẹp mê ly.”
“Phần kính dày ở giữa mỗi mặt đèn là thấu kính bán cầu. Đèn này có bốn
thấu kính như vậy, số thấu kính này tùy thuộc vào đặc tính chớp của mỗi
hải đăng. Nguồn sáng phải ngay hàng chính xác để thấu kính có thể tập
trung ánh sáng được.”
“Rồi còn những vòng kính quanh đó thì sao?” Các mảnh kính hình cung
lắp quanh trung tâm thấu kính, như những vòng tròn trên bảng phóng phi
tiêu.
“Tám cái đầu tiên khúc xạ ánh sáng: chúng uốn cong ánh sáng, nhờ đó
mà ánh sáng không truyền thẳng đến mặt trăng hay xuống đáy đại dương