phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung
Nô. Ông này nắm lấy cơ hội để đề nghị được trở thành con rể của vua
Nguyên Đế. Thay vì gả cưới một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Tà đã
được ban cho 5 cung nữ từ hậu cung, một trong số này là Vương Chiêu
Quân.
Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" (
昭君出塞, "Đi đến biên cương") nói
rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa
nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa
buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con ngỗng trời bay ngang,
nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa
xuống đất. Từ "lạc nhạn" trong câu "Trầm ngư lạc nhạn" do đó mà có.
Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã
cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn
Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm.
(2) Thiên Can Địa Chi hay Thập Can Thập Nhị Chi là hệ thống đánh số
thành chu kỳ được dùng tại các nước có nền văn hóa Á Đông như: Trung
Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, Triều Tiên và một số quốc gia khác. Nó được
áp dụng với tổ hợp chu kỳ sáu mươi (60) trong âm lịch nói chung để xác
định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, năm, tháng) cũng như trong chiêm
tinh học. Người ta cho rằng nó có xuất xứ từ thời nhà Thương ở Trung
Quốc.
Can được gọi là Thiên Can hay Thập Can do có đúng mười (10) can khác
nhau. Can cũng còn được phối hợp với Âm-Dương và Ngũ hành. Thập Can
bao gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân Nhâm, Quý.
Chi hay Địa Chi hay Thập Nhị Chi do có đúng thập nhị (mười hai) chi. Đây
là mười hai từ chỉ 12 con vật của hoàng đạo Trung Quốc dùng như để chỉ
phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm và giờ ngày xưa (gọi là canh gấp