- Dạ thưa không. Tôi đàn bà, lại không có chữ nghĩa nhiều, nên chẳng bao
giờ tiếp xúc với họ. Chỉ có ba các cháu biết đôi ba câu tiếng Anh võ vẽ trò
chuyện với chúng.
Thấy người đàn bà có vẻ vẫn còn hơi sợ. Mẫn chuyển sang chuyện khác
cho chị bình tâm hơn:
- Xin chị vui lòng nói lại cho nghe vì sao anh chị lại chuyển về tỉnh này?
- Thưa, tôi đã nói rồi: ba các cháu biểu ở Z khó làm ăn lắm, mà thời thế
chưa biết rồi sẽ ra sao, sợ lắm! Ba các cháu cứ thở than luôn, rồi bàn với tôi
là có lẽ sẽ xin thôi mọi việc để về quê cũ làm vườn sinh sống, là yên ổn hơn
cả.
- Xin chị nói lại về dịp anh Nhâm qua đời…
Hai dòng nước mắt người đàn bà lại từ từ chảy dài. Mặc dầu đã tám năm
trôi qua, nhưng nhắc lại chuyện này, rõ ràng tấm lòng người vợ vẫn gần như
còn nguyên vẹn nỗi khổ đau, tan nát:
- Thưa, như đã nói với quý anh, ba các cháu mắc chứng đau bao tử đã lâu.
Từ hồi còn hoạt động bí mật cho đàng mình. Về đây vẫn vậy. Thuốc đã
nhiều mà chưa thể trị dứt hẳn chứng bệnh đó. Dịp ấy, ba các cháu lại đau
nhiều. Nhưng biểu đi mổ cứ không chịu đi. Một hôm ảnh nhận được một
bưu phẩm nhỏ của một người bạn trong đó có một lọ thuốc đau bao tử nói
là của Pháp rất tốt, gửi tặng. Anh uống liền. Nhưng sau mấy hôm thì qua
đời. Dạo đó tôi cứ như điên, như dại chẳng còn nghĩ, chẳng còn hiểu được
chi hết. Nhưng sau, bà con lối xóm có người bảo có khi ảnh bị ngộ độc, chứ
không phải vì bệnh. Đau bao tử sao mà chết người mau thế được? Nhưng
sự đã rồi. Ảnh đã mồ yên mả đẹp, còn biết làm chi nữa. Khi tìm lại lọ thuốc
và lá thứ ấy thì chẳng còn. Các cháu đã vứt cả đi đâu mất hết. Anh tính,
cảnh mẹ góa con côi nghèo túng, nhà lại có tang, ai mà nhớ, ai mà thu vén,
cất giữ được những thứ lỉnh kỉnh ấy trong lúc bối rối.
Mẫn ngồi nghe hết sức chăm chú. Lát sau anh hỏi tiếp: