Tôi không thấy tất cả những điều đó. Tôi thâ ̣m chı́ không biết mı̀nh đã là
con dơi, cho đến khi bô ̣ não dơi của tôi phát mô ̣t mê ̣nh lê ̣nh buô ̣c tôi phải
mở miê ̣ng ra và thốt lên mô ̣t xung âm thanh nghe chiêm chiếp.
Tôi bắn ra mô ̣t tràng xung âm rất nhanh. Cũng chả khác gı̀ phát ra mô ̣t
chuỗi âm thanh súng máy cực lớn, chı̉ có điều là nó cao hơn và nhanh hơn,
nhanh hơn rất nhiều.
Và rồi…
<Waaa!> tôi thốt lên.
Căn phòng tối đen như hũ nút, chơ ̣t sáng lên.
Không hẳn như nhı̀n thấy. Mà là như… cảm thấy thı̀ đúng hơn. Có điều
là ba ̣n như cảm thấy từ xa. Tôi cảm thấy mô ̣t căn phòng rô ̣ng. Tôi cảm
thấy hàng ngàn sơ ̣i dây chằng chi ̣t cha ̣y từ trên xuống dưới, từ trái sang
phải, xiên qua xiên la ̣i.
Và, ở ngay giữa căn phòng, đằng sau những đám dây chằng chi ̣t, tôi cảm
thấy mô ̣t bề mă ̣t phẳng phiu, nhô cao, mô ̣t chiếc bê ̣. Có những sơ ̣i dây
xoắn ốc, đi từ đı̉nh của chiếc bê ̣…
Tất cả đô ̣t ngô ̣t hiê ̣n ra trong chớp nhoáng. Và rồi nó biến mất. Mấy đứa
kia cũng bắn lung tung những sóng đi ̣nh vi ̣ âm thanh của bo ̣n nó, nhưng tôi
vẫn cảm thấy rất rõ các âm thanh mà bo ̣n nó phát ra.
<Bá cháy,> Rachel thốt lên.
<Mấy sơ ̣i dây sı́t nhau ghê quá,> Cassie lo lắng. <Mı̀nh ước chi có thời
gian để luyê ̣n că ̣p cánh này mô ̣t chút. Hy vo ̣ng rằng mo ̣i sự trót lo ̣t. Chı̉ còn
nước đă ̣t niềm tin vào khả năng bay của loài dơi mà thôi.>
<Mă ̣c kê ̣ cho bản năng dơi làm viê ̣c đi, Cassie,> tôi nói.
<Cám ơn. Mời bồ ra tay trước.>
<Tui hả? Ủa.> Bất chơ ̣t, tôi cảm thấy chẳng muốn cười giỡn nữa. Tôi
liếm môi bằng cái lưỡi dơi bé tı́ te ̣o. Tôi nhâ ̣n ra mı̀nh cũng có môi. Nhưng
tôi cũng không dám chắc nữa.
Tôi xòe rô ̣ng đôi cánh ra và nghı̃ Được thôi, cũng thú vi ̣ đấy. Tôi thử
đôi cánh mô ̣t cách thâ ̣n tro ̣ng. Chúng cử đô ̣ng không hề giống như cánh
chim. Cứ y như mỗi lần vỗ là chúng túm lấy không khı́ và lùa ra phı́a sau.
<Đươ ̣c rồi. Tui đi đây.>