ngày càng choán thêm chỗ. Nhưng ı́t ra thı̀ tôi cũng đã nhı̀n đươ ̣c trở la ̣i. Và
không chết đuối. Cá sấu có khả năng nhi ̣n thở mô ̣t thời gian rất lâu.
Tôi có thể trông thấy trên đầu mı̀nh tấm màn mỏng màu sáng phân
chia nước với trời. Và trong lòng nước, xung quanh tôi là hai con cá heo tổ
chảng màu xám, cả hai đang toét miê ̣ng cười, nu ̣ cười thường trực của cá
heo. Cassie và anh Jake.
Cách chừng ba chu ̣c mét, là mô ̣t con cá mâ ̣p đầy vẻ đe do ̣a. Hy
vo ̣ng đó là Ax.
Tôi nhı̀n anh Jake, có thể đó là Cassie cũng nên. <Em nghı̃ là em có
vấn đề về vu ̣ biến hı̀nh…>
<Rachel à, cả bo ̣n xém toi ma ̣ng vı̀ em kı́n miê ̣ng về vu ̣ này quá
đó.>
Thâ ̣t chẳng tin nổi là anh Jake la ̣i có gio ̣ng châm biếm như thế.
<Ôi trời,> Marco kêu lên. Câ ̣u ấy vẫn còn ở trong lốt hải âu. <Tui
hổng biết Visser Ba bi giờ ở đâu, nhưng hắn đã sẵn sàng để lă ̣n xuống biển
rồi đó. Và chắc mấy bồ chẳng muốn ở dưới khi hắn lă ̣n xuống đâu.>
<Hãy chuồn khỏi đây trong lúc còn có thể,> anh Jake hô. <Rachel,
nếu em cảm thấy vu ̣ biến hı̀nh đó la ̣i xảy ra thı̀ cho tu ̣i này hay liền nha.>
<Chút nữa hãy nói. Để em bơi ra xa cái đã.>
Sử du ̣ng cái đuôi cá sấu to đùng, tôi quay người la ̣i mô ̣t cách dễ
dàng và bắt đầu bơi.
Cassie, anh Jake và Ax đều quay la ̣i rất le ̣ và mười giây sau ho ̣ đã
bỏ xa tôi. Tôi thấy anh Jake ngưng bơi và quay la ̣i.
<Cá sấu châu Mỹ hổng phải là cao thủ bơi lô ̣i, ha Rachel?>
<Cá sấu châu Phi,> tôi sửa la ̣i.
PP-PHẦM!
Mô ̣t tiếng đô ̣ng giống như trái thủy lôi phóng đi. Giống như mô ̣t vâ ̣t
gı̀ thiê ̣t lớn vừa nã đa ̣i bác vô lòng nước.
<Hắn tới rồi đó,> Marco thông báo với gio ̣ng ảm đa ̣m. <Để ý
những mũi lao kia nha. Trông chúng thâ ̣t ghê hồn.>
<Cái gı̀?> tôi hỏi. <Mũi lao hả? Mũi lao nào vâ ̣y?>
<Thı̀ cái giống mà Visser Ba biến ra đó. Tui hổng chắc lắm, nhưng