cây. “Tobias trên đó hả? Mo ̣i viê ̣c ra sao rồi?”
<Vẫn xưa như Trái Đất. Bồ biết quá mà. Mô ̣t thế giới của diều hâu
bắt gà con.>
Tôi bâ ̣t cười, cũng vui vui khi thấy Tobias đang yên lòng chấp nhâ ̣n
cái thực tế diều hâu của câ ̣u ấy.
<Mı̀nh sắp sửa làm tên tuần canh, canh cho đúng ha ̣n hai tiếng đồng
hồ chết người đây,> Tobias ngao ngán. <Mı̀nh là con chim đô ̣c nhất trên
đời có đeo đồng hồ đấy.>
Tôi nhı̀n kı̃ hơn và trông thấy mô ̣t cái đồng hồ hiê ̣n số nhỏ xı́u ở mô ̣t
bên chân Tobias.
<Rachel đeo cho mı̀nh đó,> Tobias giải thı́ch <Mı̀nh sẽ bay trên biển
suốt, cho nên mı̀nh nghı̃ sẽ khá an toàn. Chẳng có tay quan sát chim muông
nào ở gần đây có thể thấy mı̀nh và tự hỏi: ‘Hừừm, loài diều hâu đuôi đỏ
bắt đầu mang đồng hồ từ hồi nào vâ ̣y kı̀a?’>
Jake đề nghi ̣: “Theo mı̀nh, nên giấu quần áo, lô ̣i bô ̣ dưới sông mô ̣t
đoa ̣n ngắn rồi hãy bắt đầu biến hı̀nh.”
“Nghe đươ ̣c đấy,” Rachel tán thành.
“Cassie, bồ làm trước nha.” Jake bảo tôi.
Tôi gâ ̣t đầu. “Đươ ̣c thôi.” Chẳng biết vı̀ cớ gı̀ mà đứa nào cũng nhất
quyết cho rằng tôi là đứa biến hı̀nh cừ nhất. Tôi thı̀ cho là cả bo ̣n chúng tôi
ai cũng biến hı̀nh ngon lành hết.
Nhưng lần đầu tiên biến hı̀nh thành mô ̣t con thú mới bao giờ cũng khá
căng thẳng. Ba ̣n không bao giờ biết đươ ̣c nó sẽ ra cái giống gı̀. Ba ̣n không
bao giờ biết đươ ̣c những bản năng và trı́ óc của con vâ ̣t sẽ kháng cự la ̣i
mı̀nh đến đâu.
Và lần này la ̣i có mô ̣t nỗi sơ ̣ mới, ı́t ra là đối với tôi. Tôi sẽ tı̀m thấy
mô ̣t trı́ óc kiểu gı̀ đây? Chı̉ là những bản năng của cá heo thôi hay sẽ là
những suy nghı̃ và ý tưởng rất riêng của nó?
Tôi trút bô ̣ bảo hô ̣ lao đô ̣ng và hất đôi giày ra, trên người còn la ̣i bô ̣
đồ biến hı̀nh. Như ba ̣n thấy đó, có thể biến hı̀nh cùng với mô ̣t ı́t quần áo,
nhưng chı̉ là những đồ bó sát mı̀nh. Bất cứ đồ gı̀ bùng nhùng rút cuô ̣c sẽ bi ̣
rách bung. Còn giày dép thı̀ quên đi nhá. Bo ̣n tôi đã tı̀m hết cách để biến