cân bằng kể từ ngày hôm qua.
“Rachel có lý lắm,” tôi nói thành tiếng, chı̉ cốt đươ ̣c nghe mô ̣t tiếng
người. “Chúng chı̉ là đồ sâu bo ̣. Những con mối chứ gı̀ đâu. Với la ̣i, cuối
cùng thı̀ mı̀nh cũng đã thoát ra đươ ̣c rồi kia mà.”
Tôi bước ra ngoài để cảm nhâ ̣n ánh nắng trên làn da của mı̀nh. Làn da
người của mı̀nh.
Hổng thư ̣c sư ̣ suy nghı̃ về viê ̣c mı̀nh làm, tôi đi xuống nhà kho, tới cái tủ
la ̣nh mà chúng tôi sử du ̣ng để chứa những thức ăn cho các con thú. Tôi lấy
ra mô ̣t con cào cào đông la ̣nh đút vô túi quần, rồi đi về phı́a bı̀a rừng.
<Ê Cassie> tôi nghe thấy có tiếng nói trong đầu khi tôi bước đi sô ̣t soa ̣t
qua rừng. <Có chuyê ̣n gı̀ mới không vâ ̣y?>
Tôi ngẩng đầu và trông thấy Tobias lướt sa ̣t qua. Câ ̣u ấy bay lên, ngoă ̣t
gấp mô ̣t vòng và đâ ̣u xuống mô ̣t cành cây. Bô ̣ vuốt sắc lẻm bấm sâu vô vỏ
cây.
“Chẳng có gı̀ quan tro ̣ng,” tôi đáp.
<Tui nghe nói đêm qua tê ̣ lắm hả?>
“Ừa, bồ vừa nói chuyê ̣n với ai vâ ̣y?”
<Với Ax chứ còn ai nữa. Ảnh chắc là phải “ru ̣ng tim” vı̀ tất cả những
chuyê ̣n đó.>
Tôi dừng bước. Có cái gı̀ đó trong cách Tobias nói “ru ̣ng tim”. “Tobias
nè, bồ còn nói chuyê ̣n với ai khác không?”
<Đa ̣i loa ̣i là với Marco,> câ ̣u ấy đáp.
“Và Marco bảo bồ là mı̀nh đã phát rồ, đúng hông?”
<Thư ̣c ra chữ Marco dùng là “phát khùng” với la ̣i “cuồng” và “châ ̣p
ma ̣ch”. Nhưng câ ̣u ấy nói tất cả những chữ đó với mô ̣t gio ̣ng rất tử tế.>
Tôi bâ ̣t cười mô ̣t cách cay đắng. “Phải, mı̀nh có hơi châ ̣p ma ̣ch thiê ̣t
đó.” Tôi công nhâ ̣n.
<Xin chào mừng bồ đã nhâ ̣p hô ̣i mát dây,> Tobias nói giỡn. <Tu ̣i mı̀nh
sẽ chẳng có đứa nào ra khỏi mo ̣i chuyê ̣n này mà còn hoàn toàn bı̀nh thường
đươ ̣c đâu. Bồ biết mà. Bao nhiêu là cái đáng sơ ̣.>
“Phải, mı̀nh phát bi ̣nh lên vı̀ tất cả những chuyê ̣n đó rồi,” tôi nói. “Mı̀nh
đã phải tiêu diê ̣t con mối chúa. Mı̀nh biết, nó chı̉ là mô ̣t con bo ̣ thôi.