vật từ một thế giới khác đã tràn vào thế giới của họ, những sinh vật hung
bạo cục súc chỉ ham muốn được chinh phạt. Giờ đây chuyện đó chỉ như là
trò trẻ con với Arthas. Làm sao cha anh và Liên Minh có thể chống chọi lại
thứ này chứ – một bệnh dịch không chỉ tàn sát người ta mà còn dựng những
xác chết đó dậy tấn công cả bạn bè gia đình người đó chỉ để mua vui cho
một kẻ loạn trí nào đó? Liệu Terenas có thể làm tốt hơn nổi không? Có lúc
Arthas nghĩ ông có thể làm được – rằng Terenas sẽ giải đáp được vấn đề
này kịp lúc để ngăn chặn nó, để bảo vệ những người vô tội – và rồi sau đó
anh nghĩ lại rằng chẳng ai có thể làm nổi điều này. Terenas hẳn cũng đành
bó tay như anh khi phải đối mặt với nỗi kinh hoàng này.
Anh chìm sâu trong suy nghĩ tới nỗi gần như không nhìn ra một người đàn
ông đang đứng giữa đường, và anh chỉ kịp kéo con ngựa dừng lại vừa kịp
lúc.
Chán nản, lo lắng, tức giận, Arthas quát, “Ngu ngốc! Ông đang làm gì vậy
hả? Ta có thể dẫm bẹp ông rồi đấy!”
Người đàn ông này không giống bất cứ ai Arthas từng gặp trước đây, nhưng
trông ông ta vẫn có vẻ gì đó quen thuộc. Cao lớn, bờ vai rộng, ông mặc một
bộ áo choàng có vẻ như được làm hoàn toàn từ lông vũ màu đen óng ánh.
Mũ trùm đầu phủ bóng đen lên khuôn mặt, nhưng vẫn thấy đôi mắt sáng
ngời nhìn lên Arthas. Một bộ râu đã luốm ít vệt xám, ẩn sau đó là một nụ
cười.
“Anh sẽ không hại ta đâu, và ta muốn được anh chú ý,” ông nói với giọng
trầm sâu và êm dịu. “Ta đã nói chuyện với cha anh rồi, chàng trai trẻ. Ông
ấy không nghe lời ta. Giờ ta đến để tìm anh.” Ông cúi chào, và Arthas cau
mày. Nghe như một – lời chế nhạo. “Chúng ta phải nói chuyện.”
Arthas khịt mũi. Giờ anh đã biết tại sao kẻ lạ mặt bí ẩn này lại trông quen
thuộc đến vậy. Terenas đã nói ông ta là một nhà tiên tri tự phong và có khả
năng biến thành một con chim. Ông ta cả gan vào thẳng ngai phòng của
chính Terenas, và rồi lại ba hoa về một ngày tận thế nào đó.
“Ta không có thời gian cho chuyện này đâu,” Arthas gầm gừ và định kéo
cương.