phú nào cũng bị điệu lên bãi ngồi cho trông thấy, rồi về người thì ốm chết,
liệt giường, có người phát điên, có người trốn biệt. Chẳng hỏi được ai.
Lão tư Nhỡ thì biệt tăm. Đêm ấy, tư Nhỡ đội mái nhà giam của xã chui ra.
Dân quân đổi nhau gác suốt sáng dưới tường mà không biết. Yên trí tường
cọc tre nhẵn sạch vấu, cao hơn hai thước, không thể leo trèo được. Sáng ra,
nghe tin bảo, đội trưởng Cự đến đứng chắp tay sau lưng, mắm môi nghiền
ngẫm, rồi đi quanh mấy vòng, đứng lại, giơ tay phân tích: “Tôi đã biết nó
còn trẻ, nó nguy hiểm nhất nên cho biệt giam đợi án. Ở xã này, chân tay nó
đã bị tôi chặt hết, không thể nghi ngờ giai cấp nông dân giúp nó trốn được.
Có ai nhớ không, nhà nó gài cái máy galen trên cột tre, cao bằng cây cau,
nó liên lạc với địch miền Nam được mà. Bọn phản động các nơi còn nhiều
lắm. Nhất định địch ở trong Nam đã ra cứu nó. “Nhưng người làng đến
xern, thì thào: “Thằng này sợ quá lòi cả cứt, thế là hoá ra nhẹ bụng, nhảy
bật lên nóc nhà. Ở đây rồi cũng chết, đằng nào cũng chết, nó liều. Đứa liều
thì cái gì chẳng làm được”. Chỗ lỗ hổng cót mái, máu chảy ròng ròng
xuống chân tường, vết giỏ giọt dài ra đến chỗ cột trụ. Dân quân sục vào
trong đền nhưng không thấy dấu vết người ẩn nấp. Nhưng Cự đã bảo là “có
địch trong Nam ra cứu nó” thì không ai nói thêm thế nào nữa.
Theo lịch, ngày mai phải xong phương án chia. Mà con số và các loại
ruộng vẫn mù mờ gạch xoá trên giấy. Bí thật, nhưng tôi không hỏi ai một
câu. Hỏi thì hoá ra lòi đuôi. Khi còn ở bên xóm Am, tôi rối quá thì lại vào
nằm với cái Đơm cho nhẹ đầu. Duyên ở đây không thế, suốt ngày Duyên đi
nhổ mạ thuê rồi lại quanh quẩn ra ngắm ruộng, đi mặc cả chia ruộng chỗ ấy
tối đến thì đi tuần. Có hôm sáng bạch, tôi bừng mắt, thấy Duyên nằm ngủ
vục đầu xuống ngực tôi, đêm qua ngủ với nhau lúc nào cũng không biết
nữa.
Thoáng bóng đội trưởng Cự ngoài ngõ. Tôi đương ườn mình lơ mơ, chập
chờn trên chõng. Thực sự, lo luẩn quẩn không thể chợp hẳn mắt. Tôi nhỏm