công việc râu ria khác. Tôi phải tìm ra người quay phim và yêu cầu anh ta
chứng thực đã quay đoạn phỏng vấn kia. Rồi tôi cần bản khai có tuyên thệ
của nhà đài rằng họ đã trao cuốn phim cho đại học Gateway. Và một lá thư
từ ban quản trị Gateway xác nhận rằng ông, là nhân viên của trường, đã
tiếp cận thước phim đặc biệt này. Tất nhiên, tôi sẽ cố tìm những người khác
trong đoạn phim xem biết đâu họ nhớ có nói chuyện với Michael. Rồi tôi sẽ
tập hợp các quan điểm nhận dạng khả quan từ những chuyên gia về cấu
trúc xương khi so sách khung hình này trong thước phim với các bức hình
của Michael. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, vấn đề sẽ trở nên đơn giản khi sử
dụng bằng chứng bào chữa hai năm rõ mười này - bằng chứng không có
vào thời điểm Michael bị tuyên án - và đệ đơn kháng cáo.”
“Phức tạp thế cơ à?” Giáo sư Zimmer tỏ vẻ bối rối.
“Tôi e là vậy. Chúng ta cứ hi vọng rằng mình có thể giấu nhẹm thứ này
tới khi có mọi thứ cần thiết. Để cánh báo giới đánh hơi được thì chuyện sẽ
rắc rối lắm.”
“Vậy à?”
“Vâng.” Stan thở dài sườn sượt. “Ông thấy đấy, thưa giáo sư Zimmer, em
trai tôi là bệnh nhân bệnh viên công Oakdale. Cậu ấy bị suy nhược tâm thần
hoàn toàn chỉ một thời gian ngắn sau khi bị tuyên án.”
“Ôi quỷ thần ơi!” Giáo sư Zimmer chớp mắt. “Tôi rất lấy làm tiếc, anh
Gerhardt.”
“Đợt trước cũng khổ lắm, nhưng người ta bảo tôi là cậu ấy khá hơn nhiều
rồi, tâm thần đã ổn định. Tôi không muốn khiến cậu ấy hi vọng nhiều rồi lại
thất vọng lắm, chỉ vì chúng ta bỏ qua vài công đoạn. Tôi sợ cậu ấy sẽ... ờ...
Tốt hơn tôi không nên đi sâu vào chi tiết nữa. Nói chung là sẽ tốt hơn cho
Michael nếu cậu ấy không biết gì về vụ này tới khi mọi chuyện đã xong
xuôi.”
“Tất nhiên rồi. Tôi hiểu rõ mà, anh Gerhardt.”
Stan hắng giọng. “Và ấy là lí do tôi hơi lo lắng về vị bồi thẩm đã xem
đoạn phim này. Nếu người đó nhắc...”