ninh, đặt những chiếc tủ kim loại và có móc áo trên tường. Servaz có thể
thấy hàng rào lưới màu vàng của đường sắt leo núi ở đằng sau căn phòng
và phía bên kia là hố đen của đường hầm ăn sâu vào lòng núi tối tăm.
Ziegler ra hiệu bảo Servaz trèo lên cabin, đóng cánh cửa sau lưng họ, rồi
nhấn nút. Động cơ ngay lập tức khởi động và mặt sàn dưới chân họ khẽ
rung. Tàu bắt đầu chậm rãi di chuyển dọc theo đường ray sáng lóa xuống
con dốc 45 độ. Dọc theo một bức tường đá đen, phía bên kia hàng rào lưới,
những ánh đèn nê ông cứ xuất hiện đều đều từng quãng. Cuối cùng, đường
hầm dẫn đến một căn phòng lớn xây ngay trên đá, được thắp sáng rực rỡ
bởi hàng loạt bóng đèn nê ông. Một xưởng đầy những dụng cụ máy móc,
ống dẫn và dây cáp. Các giám định viên hiện trường mặc bộ đồng phục liền
thân màu trắng, giống những người ở dưới kia, đang chạy đi chạy lại.
“Tôi muốn thẩm vấn nhóm công nhân ngay bây giờ, cho dù chúng ta sẽ
phải qua đêm ở đây chăng nữa. Đừng để họ về nhà. Họ có đúng là những
người vẫn lên đây mỗi mùa đông không?”
“Anh đang nghĩ đến điều gì thế?”
“Không có gì đặc biệt.” Giai đoạn này của cuộc điều tra cũng giống như
một giao lộ giữa rừng, mọi ngã rẽ trông đều giống nhau, nhưng chỉ có một
là đúng. Ở nơi này, mọi thứ đều xa xôi và tách biệt, nó hình thành mối dây
gắn kết mọi người, đồng thời cũng tạo ra không ít căng thẳng. Họ buộc phải
có thần kinh vững vàng.
“Lẽ nào những công nhân ấy từng có thù oán với Lombard? Nhưng tại
sao phải mất công như thế? Khi ai đó muốn trả thù ông chủ, họ sẽ đột ngột
xuất hiện ở chỗ làm cùng một vũ khí nào đó, trút giận lên đầu sếp hoặc
đồng nghiệp trước khi tự sát. Họ sẽ không mất công móc một con ngựa lên
trên một cái cáp treo.”
Servaz biết rằng Ziegler nói đúng.
“Thử tìm xem có ai đang làm việc hoặc đã từng làm việc ở nhà máy điện
trong vài năm nay gần đây có tiền sử bệnh tâm thần hay không,” anh nói.
“Đặc biệt là những người trong nhóm công nhân vẫn thường lên trạm.”