dối, một nhà thơ thời ấy đã phát hiện như vậy và được tin như vậy trong
khoảng bảy tám chục năm.
Bây giờ nói bảy tám chục năm nghe như một khoảng thời gian vô
nghĩa, nhưng đó là tuổi thọ mong đợi của loài người thời biển như tôi còn
nhớ. Thời ấy được kể là sống dai bất cứ người nào chết sau bảy tám chục
năm. Còn nếu căn cứ vào những lời cầu chúc bải buôi được lưu lại trong
viện bảo tàng chữ nghĩa thì thời gian sống lý tưởng của đàn ông lẫn đàn bà
là trăm năm, chính xác là trăm năm hạnh phúc + tuổi kết hôn. À, lại phải bị
chú về từ cổ kết hôn. Đó là một quyết định của con người, mà họ đổ thừa
cho Chúa, Định Mệnh, Nguyệt Lão, hay Duyên Số, nhằm kết hợp một
người đàn ông và một người đàn bà với nhau. Nếu sự kết hợp không thành,
hoặc thành không như ý một hoặc cả hai người, thì văn chương sẽ nảy sinh.
Ngày nay vẫn còn có thể tìm thấy trong viện bảo tàng chữ nghĩa một tỷ tỷ
sách có chung đề tài đó, và những tác giả đã lao mình vào văn chương với
niềm tin tình yêu là đề tài bất diệt của loài người, hiểu là có đủ đàn ông và
đàn bà, hóa ra có lý. Họ thậm chí không ngờ rằng khi thế giới chỉ còn đàn
bà, chữ nghĩa vẫn được bảo tồn chỉ vì trong đó có những lời tỏ tình.
Để quay lại thời biển như tôi còn nhớ, thời đàn ông và đàn bà tưởng
mình yêu nhau. Người đàn ông nằm trên núi nghe được tiếng sóng biển ấy
nói với người đàn bà là giá mình được chết đi lúc này, bên nhau. Người đàn
bà biết là lời nói dối nhưng lại coi đó như bằng chứng của tình yêu nên chỉ
mở to đôi mắt nhìn mây bay trên cao và lắng nghe tiếng gió thổi qua núi.
Mây bay ngàn năm, gió qua miền vĩnh cửu, mà không có ý thức gì về sinh
thái và môi trường. Biển bây giờ trong veo như bầu trời bây giờ trong suốt,
mây đã thôi bay từ lâu và gió không còn lồng lộng thổi.
Biển như tôi còn nhớ cũng giống như đàn bà thời có đàn ông, chấp
nhận bị lừa dối để thí nghiệm tình yêu. Từ xưa đến lúc ấy, những tuyên
ngôn bảo vệ chân lý hay truy tìm sự thật đều là sáng tác của đàn ông.
Người đàn bà trong truyện này khi lên núi chưa biết sáng tác lớn nhất của